Cơ hội và thách thức phát triển kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp của Hà Nội

Đàm Thị Hiền

Bài viết nghiên cứu khái quát kinh tế tuần hoàn (KTTH) trong nông nghiệp như: Nội hàm, mục tiêu, nguyên tắc của nông nghiệp tuần hoàn, sự cần thiết phải chuyển đổi từ mô hình tuyến tính sang KTTH trong nông nghiệp; đồng thời phân tích những cơ hội và thách thức đặt ra.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Với vị thế là Thủ đô của cả nước, Hà Nội có nhiều thuận lợi trong việc triển khai mô hình KTTH trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế đặc thù của địa phương. Tuy nhiên, trong bối cảnh chính sách về phát triển mô hình KTTH chưa hoàn thiện, hệ thống thông tin dữ liệu liên quan đến KTTH còn thiếu, nhận thức của người dân, doanh nghiệp… về mô hình này còn chưa đầy đủ đang là rào cản đối với Hà Nội trong phát triển KTTH. Bài viết này nghiên cứu khái quát KTTH trong nông nghiệp như: Nội hàm, mục tiêu, nguyên tắc của nông nghiệp tuần hoàn, sự cần thiết phải chuyển đổi từ mô hình tuyến tính sang KTTH trong nông nghiệp; đồng thời phân tích những cơ hội và thách thức đặt ra.

Khái quát về KTTHtrong nông nghiệp

Những năm gần đây, KTTH trong ngành Nông nghiệp được giới khoa học, các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia quan tâm nghiên cứu như một giải pháp thay thế bền vững để tạo ra các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, ít tác động tiêu cực đến môi trường, tận dụng tốt hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên để tái sử dụng trong các sản phẩm mới giúp kéo dài thời gian sử dụng của nguyên liệu.

Theo nghiên cứu của Van Berkum và cộng sự (2019) nông nghiệp tuần hoàn (hay nền KTTH áp dụng cho các hệ thống thực phẩm) dựa trên ý tưởng từ nền KTTH, trong đó sử dụng lý thuyết và nguyên tắc từ sinh thái công nghiệp. Sinh thái công nghiệp tìm cách giảm tiêu thụ tài nguyên và thải ra môi trường bằng cách khép kín vòng lặp (việc sử dụng) vật liệu và chất liệu. Theo đó, khái niệm KTTH được khái quát ngắn gọn như sau: “Đối tác kinh tế của khái niệm tuần hoàn sinh thái – chống lại mô hình kinh tế tuyến tính mô hình “lấy-sản xuất-tiêu dùng-loại bỏ” và kéo theo ba hoạt động kinh tế, được gọi là 3Rs: tái sử dụng, tái chế và giảm thiểu các vật liệu và sản phẩm hiện có (đã qua sử dụng). Những gì trước đây được coi là chất thải hoặc thặng dư trở thành một nguồn tài nguyên được (tái) định giá”. Cũng theo nghiên cứu này, nông nghiệp tuần hoàn được coi là một phương tiện hữu ích để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, vì trọng tâm của khái niệm này chủ yếu hướng tới tăng cường tính bền vững môi trường.

Theo Nguyễn Xuân Hồng (2020), nông nghiệp tuần hoàn là quá trình sản xuất theo một chu trình khép kín mà hầu hết các chất thải được quay trở lại làm nguyên liệu cho sản xuất. Chất thải và phụ phẩm của quá trình sản xuất này là đầu vào của quá trình sản xuất khác.

Nguyễn Thị Miền (2021) cho rằng, KTTH trong nông nghiệp là quá trình sản xuất nông nghiệp theo chu trình khép kín, chất thải và phế, phụ phẩm của quá trình này là đầu vào của quá trình sản xuất khác thông qua áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ sinh học, công nghệ hóa lý.

Mục tiêu của KTTH trong nông nghiệp

Nông nghiệp tuần hoàn tập trung vào việc sử dụng lượng đầu vào bên ngoài ở mức tối thiểu, khép kín các vòng dinh dưỡng, tái tạo đất và giảm thiểu tác động đến môi trường. Nếu được thực hiện trên quy mô rộng, nông nghiệp tuần hoàn có thể giảm yêu cầu về tài nguyên và dấu chân sinh thái của nông nghiệp. Nó cũng có thể giúp đảm bảo giảm sử dụng đất, phân bón hóa học và chất thải, giúp giảm lượng khí thải CO2 toàn cầu. Ở châu Âu, kết quả khảo sát cho thấy, cách tiếp cận tuần hoàn đối với hệ thống thực phẩm có thể giảm 80% việc sử dụng phân bón hóa học (Ellen MacArthur Foundation, 2016).

Trong nền KTTH, việc tái sử dụng và tái chế vật liệu không chỉ là một bước riêng biệt để khép kín vòng tròn, mà còn là một phần tích hợp của các lựa chọn được đưa ra trong giai đoạn sản xuất và sử dụng. Nông nghiệp tuần hoàn thúc đẩy canh tác nông hộ nhỏ, gắn liền với các phương thức canh tác hữu cơ, hỗn hợp và nông lâm kết hợp. Nông nghiệp tuần hoàn với sản xuất đa dạng hơn có liên quan đến sức khỏe và dinh dưỡng tốt hơn, trái ngược với sản xuất độc canh định hướng xuất khẩu thường dẫn đến mất an ninh lương thực gia tăng.

Nông nghiệp tuần hoàn cũng sử dụng nhiều lao động hơn so với canh tác thông thường, điều này đưa ra một chiến lược để kích thích nền kinh tế ở khu vực nông thôn. Do đó, việc áp dụng các biện pháp canh tác tuần hoàn có thể góp phần quan trọng vào việc xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực và tạo ra các cơ hội việc làm mới, đặc biệt là cho phụ nữ nông thôn. Theo FAO, phụ nữ chiếm 48% việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp ở các nước có thu nhập thấp, nhưng phải đối mặt với những hạn chế lớn hơn nam giới trong việc tiếp cận các nguồn lực và dịch vụ sản xuất, công nghệ, thông tin thị trường và tài sản tài chính.

Nguyên tắc KTTH trong nông nghiệp

Tối ưu hóa việc sử dụng tất cả sinh khối trong hệ thống thực phẩm. Nông nghiệp tuần hoàn muốn khép lại vòng luẩn quẩn vật liệu và chất, giảm sử dụng tài nguyên và thải ra môi trường.

- Quản lý tối ưu nguồn lực

- Sử dụng thực phẩm tối ưu, giảm lãng phí thực phẩm

- Sử dụng tối ưu dòng cặn (dư lượng)

- Tối ưu hóa (không tối đa hóa) sản lượng tài nguyên thiên nhiên bằng cách tuần hoàn các sản phẩm, linh kiện và vật liệu

- Tái chế phụ phẩm từ quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ thực phẩm trở lại hệ thống

- Đóng vòng dinh dưỡng và sử dụng nông nghiệp tái tạo

- Thúc đẩy tính hiệu quả bằng cách xác định và sau đó loại bỏ dần các hoạt động lãng phí và bất lợi

- Bảo tồn và tăng cường vốn tự nhiên bằng cách cân bằng dòng tài nguyên tái tạo

- Thu hồi giá trị từ dinh dưỡng hữu cơ

- Sinh khối thực vật là khối xây dựng cơ bản của thực phẩm và nên được con người sử dụng trước tiên

- Sử dụng động vật để biến những nguyên liệu mà con người không tiêu hóa được thành thực phẩm có giá trị cao cho con người

- Thiết lập các hình thức hợp tác mới giữa con người và tổ chức

- Tôn vinh sự đa dạng của địa phương bằng cách lấy cảm hứng từ thiên nhiên và văn hóa

- Các hệ thống tuần hoàn bền vững được điều chỉnh phù hợp với điều kiện, năng lực và văn hóa địa phương

- Thúc đẩy các hệ thống thực phẩm địa phương và khu vực trong đó các vòng tài nguyên có thể được đóng lại (đặc biệt là ở bối cảnh khu vực đô thị và ven đô).

Sự cần thiết phải chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang KTTH trong nông nghiệp

Theo Van Berkum và cộng sự trong nghiên cứu: Nông nghiệp tuần hoàn ở các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp (Circular Agriculture in Low and Middle Income Countries, 2019) đã làm rõ nguyên nhân của việc chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang KTTH trong nông nghiệp, cụ thể:

(i) Hệ thống lương thực toàn cầu hiện nay có tác động về mặt môi trường rất lớn, trong quá trình sản xuất, chế biến và sử dụng lương thực toàn cầu sẽ thải ra 1/4 tổng số khí nhà kính, gây ra nạn phá rừng và mất đa dạng sinh học, ô nhiễm nước ngọt và nước biển, đồng thời chiếm 40% diện tích đất không có băng và sa mạc của thế giới (de Boer và van Ittersum, 2018).

(ii) Thách thức chính trong những thập kỷ tới là sản xuất đủ thực phẩm an toàn cho các thế hệ tương lai mà không làm cạn kiệt tài nguyên hoặc phá hủy hệ sinh thái của Trái đất (Jurgilevich và cộng sự, 2016).

(iii) Nhu cầu tiếp tục và ngày càng tăng đối với các sản phẩm (vẫn đang được sản xuất tuyến tính) gây áp lực trực tiếp về tài nguyên, gây ra sự cạn kiệt đối với nguồn tài nguyên hữu hạn (Rood và cộng sự, 2017).

(iv) Dự trữ các nguyên tố dễ chiết xuất quan trọng đối với sản xuất thực phẩm (như phốt phát, kali) đang khan hiếm và giảm dần, do đó, điều quan trọng là phải tái chế và tái sử dụng chúng do trữ lượng các tài nguyên này chỉ tập trung ở một số quốc gia hoặc khu vực Ma-rốc, Tây Sahara và Trung Quốc. (Burgo và cộng sự, 2019).

(v) Hệ thống nông nghiệp hiện tại dựa trên chuỗi cung ứng, các tổ chức, cá nhân tham gia chuỗi cung ứng chỉ quan tâm tới mục tiêu khai thác tài nguyên để đạt lợi ích kinh tế lớn với chi phí thấp nhất, không tính tới tiết kiệm nguyên liệu. Đây là một lỗ hổng nghiêm trọng dẫn tới việc thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả bởi hầu hết những tổn thất về tài nguyên không được tổng hợp chi phí khi định giá nông sản. (MoA, 2018).

Cơ hội phát triển KTTH nông nghiệp của Hà Nội

Thứ nhất, động lực phát triển KTTH với vai trò Việt Nam là thành viên cam kết của các hiệp định thương mại, các tổ chức quốc tế.

Việt Nam đang là một quốc gia có tốc độ hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế, đặc biệt là tham gia vào các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Hầu hết các hiệp định này đều có các quy định, thỏa thuận về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phải tuân thủ các tiêu chuẩn phát thải chất thải, khí thải. Đây vừa là tiền đề, vừa là động lực để thúc đẩy Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng tăng tốc chuyển đổi sang mô hình KTTH.

Thứ hai, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong phát triển KTTH.

KTTH đã sớm nhận được quan tâm của Đảng, Nhà nước với các định hướng, chỉ đạo theo hướng toàn diện, thống nhất trong các văn kiện của Đảng hoặc định hướng Chiến lược, đề án của Chính phủ. Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường 2020 được Quốc hội thông qua với nhiều đột phá dựa trên định hướng chung là thúc đẩy chuyển đổi xanh, thúc đẩy thực hiện KTTH. Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường đã cụ thể hóa tiêu chí, lộ trình và cơ chế khuyến khích áp dụng KTTH. Đề án “Phát triển KTTH Việt Nam” theo Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/6/2022 đã cụ thể các mục tiêu, nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu trách nghiên cứu, rà soát, xây dựng và triển khai mô hình KTTH trong thực tiễn tại các địa phương.

Thứ ba, học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ những quốc gia thành công.

Hà Nội sẽ đúc kết được nhiều bài học từ các nước đi trước và vận dụng phù hợp vào đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội đặc thù của địa phương, tận dụng các cơ hội hợp tác về tiếp nhận chuyển giao các công nghệ về thiết kế mô hình chế biến, chế tạo từ các quốc gia đã vận dụng thành công mô hình KTTH nông nghiệp như: Canada, Thụy Điển, Đan Mạch, Singapore, Phần Lan, Trung Quốc, Nhật Bản…

Thứ tư, lợi thế từ vị trí địa kinh tế.

Hà Nội được xác định là đầu tàu kinh tế, động lực tăng trưởng của cả nước, luôn tiên phong với những mô hình kinh tế mới, cách làm hay, sáng tạo. Với vị thế này, Hà Nội có những lợi thế hơn các địa phương khác về chính sách đặc thù (Luật Thủ đô).

Với tư duy phát triển KTTH trong nông nghiệp là xu thế tất yếu nhằm hướng đến nền nông nghiệp xanh, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu, Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn sẽ là nền tảng cho phát triển KTTH trong nông nghiệp.

Thứ năm, thị trường tiêu thụ lớn.

Với dân số khoảng 10 triệu người, Hà Nội là thị trường tiêu thụ nông sản lớn của cả nước nói chung và Đồng bằng sông Hồng nói riêng. Điều này trở thành động lực cho Hà Nội trong việc thúc đẩy phát triển mô hình nông nghiệp theo hướng KTTH và nông nghiệp công nghệ cao. (nhu cầu tiêu dùng nông sản của TP. Hà Nội trung bình mỗi tháng là hơn 19.250 tấn thịt lợn hơi; 5.350 tấn thịt bò, 5.350 tấn thực phẩm chế biến, 107.000 tấn rau củ... trong khi doanh nghiệp Hà Nội chỉ đáp ứng được từ 30 - 65% nhu cầu của người dân)

Thứ sáu, tác động tích cực của Cách mạng công nghiệp 4.0

Hà Nội là địa phương được ưu tiên ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp thông minh. Nông nghiệp thông minh là nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, cơ giới hóa, tự động hóa nhằm tối ưu hóa quá trình sản xuất, qua đó giúp tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí và bảo vệ môi trường, nhận diện sản phẩm theo chuỗi gắn với trí tuệ nhân tạo và công nghệ thông tin, đây sẽ là tiền đề để Hà Nội đột phá trong phát triển KTTH nông nghiệp. Hiện tại, Hà Nội đã xây dựng được 164 mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng cao (105 mô hình trong lĩnh vực trồng trọt, 39 mô hình về chăn nuôi, 15 mô hình về thủy sản và một mô hình kết hợp trồng trọt và chăn nuôi). Trong đó, giá trị sản phẩm công nghệ cao hiện nay chiếm khoảng 35% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp toàn thành phố.

Thách thức đặt ra trong phát triển KTTH nông nghiệp của Hà Nội

Một, thiếu hành lang pháp lý cho phát triển KTTH nên các hoạt động diễn ra theo hướng tự phát và chịu sự điều chỉnh của động lực thị trường là chủ yếu. Các tổ chức, cá nhân vẫn lấy mục tiêu ngắn hạn về lợi nhuận mà chưa cân nhắc đến các lợi ích lâu dài, bền vững. Các cơ chế, chính sách ban hành nhằm khuyến khích phát triển các mô hình KTTH còn mờ nhạt, chưa cụ thể, chưa thu hút được sự quan tâm của người dân, doanh nghiệp.

Hai là, thiếu bộ tiêu chí để nhận diện, đánh giá, tổng kết và đưa ra phân loại chính xác mức độ phát triển của KTTH trong các ngành, lĩnh vực ở các cấp độ.

Ba là, hạn chế về nguồn lực để thực hiện chuyển đổi sang phát triển KTTH do việc chuyển đổi sản xuất sang mô hình KTTH sẽ đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu lớn để thay thế thiết bị, quy trình, tối ưu cả hệ thống cũng như xử lý các vấn đề về môi trường. (90% doanh nghiệp trên địa bàn phần lớn có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp)

Bốn là, mức độ sẵn sàng cho Cách mạng công nghiệp 4.0 so với các nước trong khu vực và trên thế giới còn khá thấp. Tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp thông minh của Hà Nội chỉ chiếm 4% - 6% trong tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản của thành phố, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp chất lượng cao, các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đầu tư vào nông nghiệp còn quá ít, tổng vốn đăng ký và vốn thực hiện còn quá nhỏ. Cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp thông minh còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa đủ mạnh, nhất là việc đầu tư hạ tầng phát triển sản xuất nông nghiệp tại các địa phương…

Năm là, thiếu thị trường nguyên nhiên liệu, thứ cấp, thị trường tiêu thụ sản phẩm tái chế.

Sáu là, thiếu đội ngũ chuyên gia, có năng lực đào tạo lĩnh vực thiết kế mô hình KTTH cả ở các đơn vị chủ quản và các cơ sở đào tạo.

Bảy là, sự chấp nhận tiêu dùng với các sản phẩm tái chế còn chưa cao.

Tám là, thiếu hệ thống thông tin, dữ liệu và cơ chế kiểm tra, giám sát việc triển khai, áp dụng KTTH chưa được hình thành.

Ngoài ra, còn khó khăn trong việc tạo sự đồng thuận chung trong nhận thức đúng đắn về bản chất của KTTH, từ việc thiết kế đến triển khai trong các ngành, lĩnh vực, đối với từng doanh nghiệp, người dân và các cấp quản lý.

Kết luận

Thực hiện phát triển KTTH nói chung và KTTH trong nông nghiệp nói riêng là xu hướng tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới trong bối cảnh tài nguyên ngày càng suy thoái, cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu diễn biến khốc liệt. Với những tổn thất to lớn do nông nghiệp truyền thống gây ra, nền KTTH nông nghiệp được thiết kế như một giải pháp thay thế cho mô hình sản xuất và tiêu dùng tuyến tính, ứng phó với những thách thức của tăng trưởng kinh tế và năng suất hiện tại vì nó thúc đẩy dòng tuần hoàn khai thác, chuyển đổi, phân phối, sử dụng và thu hồi vật liệu. Phát triển KTTH trong nông nghiệp giúp bảo vệ môi trường, thúc đẩy đổi mới và giúp ngành nông nghiệp duy trì tính cạnh tranh. Bài viết này có những đánh giá ban đầu về những cơ hội và thách thức trong quá trình thực hiện phát triển KTTH trong nông nghiệp trên địa bàn TP. Hà Nội.

Tài liệu tham khảo:

  1. Văn kiện Đại hội đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XII;
  2. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; trong đó Điều 142 quy định các nội dung, yêu cầu đối với phát triển KTTH ở Việt Nam;
  3. Quyết định số 889/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/6/2020 về phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững (SCP);
  4. Nghị định số 08/2022/NĐ - CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường;
  5. Quyết định số 687/QĐ - TTg ngày 07/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án “Phát triển KTTH ở Việt Nam”;
  6. Quyết định 2544/QĐ - UBND ngày 20/7/2022 của UBND thành phố Hà Nội về việc phê duyệt đề cương nhiệm vụ “Giải pháp thúc đẩy phát triển KTTH trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
  7. CREM (2018), Scoping study circular economy Vietnam, Amsterdam, theNetherlands;
  8. Ellen MacArthur Foundation (2012), Towards the circular economy: Economic and business rationale for an accelerated transition;
  9. Ellen MacArthur Foundation (2015), Report on Circular economy;
  10. Global Footprint Network (2018), National Footprint Accounts. https://data.footprintnetwork.org;
  11. Ellen MacArthur Foundation (2016), The New Plastics Economy, Rethinking the Future of Plastics. Ellen MacArthur Foundation, World Economic Forum & McKinsey Center for Business and Environment;
  12. OECD (2019). Business Models for the Circular Economy: Opportunities and Challenges for Policy.