Sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp:

Đề xuất mức thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn với doanh nghiệp có quy mô nhỏ

Thùy Linh

Theo quan điểm của Bộ Tài chính, việc sửa đổi mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) tại dự án Luật Thuế TNDN tập trung cho nhóm đối tượng cấp thiết là DN có quy mô nhỏ, các dự án khai thác tài nguyên, khoáng sản để thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.

Bộ Tài chính đề xuất  bổ sung quy định để áp dụng mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
Bộ Tài chính đề xuất bổ sung quy định để áp dụng mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ.

Sửa đổi, bổ sung quy định về mức thuế suất đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí

Tại dự thảo Tờ trình Dự án Luật Thuế TNDN sửa đổi, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định về thuế suất thuế TNDN, trong đó có hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí.

Cụ thể, Bộ Tài chính dự kiến sửa đổi, bổ sung quy định về mức thuế suất đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí tại Việt Nam, đảm bảo đồng bộ với quy định của Luật Dầu khí số 12/2022/QH15 vừa được Quốc hội thông qua.

Giải thích về lý do lựa chọn giải pháp này, Bộ Tài chính cho biết, khung thuế suất thuế TNDN đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu, khí và tài nguyên quý hiếm khác tại Việt Nam từ 32% đến 50% được quy định và áp dụng từ năm 1999 đến nay. Trong đó, mức thuế suất sàn (32%) tại thời điểm năm 1999 được xác định bằng mức thuế suất thuế TNDN phổ thông đối với đầu tư trong nước tại thời điểm đó.

Đến nay, mức thuế suất phổ thông thuế TNDN đã từng bước được điều chỉnh giảm từ mức 32% trước đây xuống mức 20% từ năm 2016. Trong khi đó, việc khai thác dầu khí ngày càng khó khăn bởi các mỏ khai thác mới ở vị trí kém thuận lợi cùng các yếu tố địa chính trị, chi phí khai thác cao và chứa đựng nhiều rủi ro nên thời gian gần đây không khuyến khích được các DN khai thác dầu khí mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh.

“Để đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật, có chính sách hỗ trợ, phát triển lĩnh vực dầu khí trong tình hình mới, cần thiết nghiên cứu điều chỉnh khung thuế suất đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại Luật thuế TNDN cho phù hợp. Cụ thể, điều chỉnh khung thuế suất đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí từ 32%-50% sang khung từ 25%-50%. Đồng thời, luật hóa các quy định tại Nghị định số 218/2013/NĐ-CP  đã được thực hiện ổn định trong giai đoạn vừa qua, thực tế không phát sinh vướng mắc để đảm bảo tính pháp lý cao hơn, sự minh bạch và ổn định của chính sách”, Bộ Tài chính lý giải.

Áp dụng mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn đối với DN có quy mô nhỏ

Để điều chỉnh thuế suất thuế TNDN đối với một số nhóm đối tượng cho phù hợp với các yêu cầu và bối cảnh mới, Bộ Tài chính cũng đề xuất một giải pháp khác đó là bổ sung quy định để áp dụng mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn đối với DN có quy mô nhỏ để thực hiện các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

Theo Bộ Tài chính, ở nước ta, hiện nay, số lượng DN có quy mô nhỏ, trong đó chủ yếu là DN nhỏ và siêu nhỏ, chiếm đa số trong tổng số DN đang hoạt động và đang giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như ổn định xã hội. 

Qua tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy DN có quy mô nhỏ vẫn luôn là mục tiêu trọng tâm của các chính sách phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia. Chính phủ nhiều nước đã thông qua các chính sách và chương trình hỗ trợ trên nhiều phương diện khác nhau nhằm tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự phát triển DN có quy mô nhỏ, trong đó chính sách hỗ trợ về thuế cũng là công cụ thường được các nước sử dụng theo hướng quy định mức thuế suất ưu đãi (có thể là mức thuế suất cố định hoặc mức thuế suất lũy tiến theo quy mô thu nhập) dành cho các DN có quy mô nhỏ.

Thực tế là phần lớn các nước áp dụng mức thuế suất thuế TNDN thấp hơn mức thuế suất phổ thông cho các DN có quy mô nhỏ, có phân biệt theo quy mô doanh thu, thu nhập chịu thuế. Theo đó, cần nghiên cứu, bổ sung vào Luật thuế TNDN quy định áp dụng thuế suất thấp hơn đối với các DN nhỏ và vừa.

Tuy nhiên, việc đề xuất áp dụng các chính sách hỗ trợ DN có quy mô nhỏ cần phải dựa trên nguyên tắc: hỗ trợ đúng, trúng đối tượng để đạt được lợi ích kinh tế, xã hội cao nhất, tránh dàn trải, làm giảm hiệu quả của chính sách khuyến khích, hỗ trợ, đặc biệt trong bối cảnh việc cơ cấu lại ngân sách nhà nước tiếp tục được đặt ra.

Theo Bộ Tài chính, với thực tế là số lượng DN nhỏ và siêu nhỏ (theo tiêu chí xác định như quy định của pháp luật về hỗ trợ DN nhỏ và vừa nêu trên) sẽ chiếm tới 93% tổng số DN ở Việt Nam và nếu tính cả số lượng DN có quy mô vừa thì nhóm DN siêu nhỏ, nhỏ và vừa chiếm tới trên 97% tổng số DN.

Việc áp dụng các chính sách hỗ trợ cho toàn bộ nhóm DN siêu nhỏ, nhỏ và vừa thì gần như toàn bộ DN tại Việt Nam đều được hưởng ưu đãi và không mang nhiều ý nghĩa nhằm ưu tiên phát triển, đồng thời có thể dẫn đến sự cạnh tranh không bình đẳng giữa DN vừa với các DN nhỏ, DN siêu nhỏ trong khi nhóm DN vừa đã sẵn có nhiều lợi thế hơn (vốn, doanh thu, thị trường, lao động, công nghệ...).

Từ các nội dung nêu trên, để đảm bảo chính sách hỗ trợ đúng và trúng đối tượng cần hỗ trợ, tránh dàn trải, phù hợp với Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 và thực tế áp dụng chính sách hỗ trợ về thuế TNDN đối với nhóm DN có quy mô nhỏ đã được thực hiện thời gian qua, cũng như đảm bảo đơn giản, thuận lợi trong thực hiện, có thể xem xét cho phép DN thuộc nhóm DN nhỏ và DN siêu nhỏ được áp dụng các mức thuế suất thuế TNDN tương ứng là 17% và 15%.

“Các mức thuế suất này đảm bảo sự khuyến khích, hỗ trợ tương đương với mức thuế suất ưu đãi theo quy định của Luật thuế TNDN đang áp dụng cho các dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, lĩnh vực chế biến nông sản, thủy sản và có mức độ khuyến khích cao hơn mức thuế suất đã áp dụng trong giai đoạn 2013-2016. Tiêu chí xác định DN nhỏ và DN siêu nhỏ được xác định dựa trên doanh thu của năm trước liền kề như đã thực hiện như giai đoạn trước đây. Trường hợp DN mới thành lập, giao Chính phủ quy định cụ thể tổng doanh thu làm căn cứ áp dụng. Ngoài ra, để đảm bảo chặt chẽ, hạn chế việc lợi dụng chính sách cần đồng thời quy định mức thuế suất ưu đãi nêu trên không áp dụng đối với công ty con hoặc công ty có quan hệ liên kết mà DN trong quan hệ liên kết không đáp ứng điều kiện áp dụng thuế suất ưu đãi theo quy định”, Bộ Tài chính khẳng định.

 

Bộ Tài chính cho biết, Điều 10, Luật Thuế TNDN về thuế suất thuế TNDN quy định mức thuế suất phổ thông và mức thuế suất áp dụng đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu, khí và tài nguyên quý hiếm khác tại Việt Nam. Về mức thuế suất phổ thông, Việt Nam đã từng bước giảm thuế suất thuế TNDN phổ thông qua các lần sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNDN theo đúng lộ trình đề ra tại Chiến lược cải cách hệ thống thuế. Theo đó, từ ngày từ 1/1/2016, mức thuế suất phổ thông thuế TNDN áp dụng là 20%; riêng DN có quy mô nhỏ được áp dụng thuế suất 20% ngay từ 1/7/2013.