Kinh nghiệm quản lý mô hình cho vay ngang hàng trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam

Lê Thanh Huyền - Trường Đại học Hòa Bình

Với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số, một phương thức cho vay trực tuyến mới xuất hiện là cho vay ngang hàng (Peer-to-Peer Lending hay còn gọi là P2P Lending). Đây là hoạt động được thiết kế và xây dựng trên nền tảng ứng dụng công nghệ số để kết nối trực tiếp người đi vay với người cho vay mà không thông qua các tổ chức trung gian tài chính. Nhờ đó, thủ tục, quy trình cho vay, giải ngân cũng được tối giản, tiết kiệm thời gian. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm quản lý P2P Lending ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, xuất các khuyến nghị chính sách đối với hoạt động P2P Lending tại Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Giới thiệu mô hình P2P Lending

P2P Lending là hình thức kết nối trực tiếp giữa người vay và người cho vay (nhà đầu tư) trên nền tảng trực tuyến mà không thông qua các bên trung gian tài chính. Nói cách khác, P2P Lending là mô hình kinh doanh sử dụng các dịch vụ online để kết nối nhà đầu tư với cá nhân/doanh nghiệp có nhu cầu vay tiền bao gồm: mô hình cho vay P2P đảm bảo (thế chấp) và không đảm bảo (tín chấp) giống với hình thức các ngân hàng đang áp dụng hiện nay.

Một điểm khác biệt là việc thẩm định của mô hình P2P Lending sẽ được tiến hành hoàn toàn trực tuyến, nhà đầu tư có quyền lựa chọn đối tác cần vay trên hệ thống có sẵn và dễ dàng theo dõi tình trạng các khoản vay cũng như lợi nhuận của mình.

Mô hình P2P Lending có khá nhiều ưu điểm:

Thứ nhất, bên vay sẽ: (i) Tiếp cận được nguồn vốn trực tiếp, đặc biệt là với các món vay nhỏ, ngắn hạn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) khó tiếp cận nguồn vốn chính thức; (ii) Đáp ứng nhu cầu vay nhanh hơn do thủ tục, quy trình đơn giản hơn so với vay tiêu dùng thông thường; (iii) Phí và lãi suất có thể thấp hơn so với vay tiêu dùng thông thường qua trung gian do tiếp cận trực tiếp, sử dụng công nghệ và dữ liệu lớn (Big data) để tiết kiệm chi phí; (iv) Có thêm lựa chọn về kênh huy động vốn.

Thứ hai, đối với nhà đầu tư (bên cho vay), mô hình này cung cấp một kênh đầu tư, góp phần đa dạng hóa danh mục đầu tư; đồng thời, lợi tức khá hấp dẫn (lãi suất thường cao hơn gửi tiết kiệm hoặc đầu tư trái phiếu thông thường).

Thứ ba, đối với công ty P2P Lending, đây là một lĩnh vực hoạt động mới, khai thác nền tảng công nghệ đã có, đem lại nguồn thu, đa dạng hóa hoạt động và tăng việc làm cho nhân viên.

Thứ tư, mô hình này giúp tăng khả năng tiếp cận vốn cho các DNNVV là đối tượng khó tiếp cận vốn từ các kênh huy động vốn truyền thống như vay vốn ngân hàng, phát hành cổ phiếu và trái phiếu trên thị trường vốn… Nguyên nhân chủ yếu là do đối tượng này thường có năng lực tài chính thấp, chưa xây dựng được kế hoạch kinh doanh dài hạn, nhu cầu vốn vay nhỏ và ngắn hạn, dễ bị ảnh hưởng bởi các đối tác, thiếu tài sản đảm bảo… Bên cạnh đó, mục đích loại hình cho vay này thường tập trung vào cho vay các món nhỏ thế chấp (mua nhà, ô tô…), tái cho vay thẻ tín dụng, cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, cho vay khởi nghiệp...

Song song với những ưu điểm, thì P2P Lending cũng đem đến một số rủi ro như sau:

- Khi P2P Lending không phải tuân thủ các quy định về an toàn hoạt động cũng như các quy định về giám sát, kiểm soát chặt chẽ như đối với các tổ chức tín dụng hay công ty quản lý đầu tư thì trách nhiệm ràng buộc giữa công ty P2P Lending và nhà đầu tư khá hạn chế, dẫn đến tranh chấp có thể xảy ra hoặc là khi xảy ra rủi ro, các bên liên quan không chịu trách nhiệm hoặc không được giải quyết đền bù như thường lệ.

- Nhà đầu tư chịu nhiều rủi ro hơn so với bên vay, bởi vì tại nhiều quốc gia, bên vay vẫn được hưởng các quyền lợi theo quy định về bảo vệ người đi vay như các quy định về lãi suất, quyền được cung cấp thông tin… trong khi nhà đầu tư lại không được hưởng các quyền lợi liên quan đến việc bảo vệ người gửi tiền như trong hệ thống ngân hàng, trong khi đó, vẫn phải chịu các rủi ro về tín dụng, thanh khoản, pháp lý… Hơn nữa, nhà đầu tư chịu thêm rủi ro đạo đức xảy ra khi: Bên vay không trả được nợ (do khách quan hay cố ý, dù có thể được bù đắp một phần từ công ty P2P Lending); và/hoặc công ty P2P Lending dùng tiền đầu tư sai mục đích, quản lý kém hoặc phá sản (do khách quan hay cố ý)… dẫn đến khả năng mất vốn.

- Những biến tướng của hình thức cho vay này như: công ty P2P Lending lừa đảo, áp dụng lãi suất và phí cao ngất ngưởng bất chấp khả năng trả nợ của bên vay; hoặc bên vay trốn tránh trả nợ dẫn đến bên cho vay hoặc công ty P2P Lending dùng mọi biện pháp kể cả thuê xã hội đen đòi nợ… dẫn đến diễn biến rất phức tạp, hệ lụy kinh tế và xã hội khó lường.

- Rủi ro pháp lý cũng có thể xảy ra khi khung khổ pháp lý chưa đầy đủ và có thể bị thay đổi nhanh chóng, dẫn đến rủi ro cho cả phía doanh nghiệp và nhà đầu tư. Cơ sở pháp lý chưa đầy đủ sẽ dẫn đến việc thiếu căn cứ để giải quyết khi xảy ra rủi ro, tranh chấp… có thể dẫn đến chậm phát triển các dịch vụ P2P Lending, không đáp ứng kịp cho nhu cầu thị trường.

Kinh nghiệm quản lý mô hình P2P Lending ở một số quốc gia

Anh

Anh được cho là một trong những quốc gia khởi đầu mô hình P2P Lending. Để quản lý P2P Lending, vào năm 2014, Cơ quan Kiểm soát Tài chính của Anh đã ban hành Bộ luật Quản lý hình thức P2P Lending để loại hình cho vay này phù hợp với thực tiễn và luôn theo dõi tình hình thực tiễn P2P Lending trên thị trường, từ đó có những điều chỉnh phù hợp. Chẳng hạn như, vào tháng 6/2019, Cơ quan Kiểm soát Tài chính có thay đổi về bộ quy tắc đối với nền tảng P2P Lending đã được thiết lập, thay đổi này có hiệu lực từ ngày 9/12/2019, một trong những thay đổi quan trọng của bộ quy tắc này là những yếu tố bảo vệ nhà đầu tư, khi các nhà đầu tư chưa được tư vấn đầy đủ sẽ không thể sử dụng hơn 10% tài sản đầu tư của mình để đầu tư P2P Lending.

Cũng từ ngày 9/12/2019, các nhà đầu tư phải được đánh giá có kiến thức và kinh nghiệm trước khi được phép tham gia đầu tư vào P2P Lending, hơn thế nữa, các nhà đầu tư là những nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng sẽ bị hạn chế tham gia mô hình này. Ngoài ra, bộ quy tắc cũng tập trung vào việc đánh giá, quản lý rủi ro, phương pháp định giá của doanh nghiệp, cũng như nền tảng có mô hình kinh doanh phức tạp, đặc biệt hoạt động quảng bá cho mô hình P2P Lending cũng sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn; nhằm bảo vệ các nhà đầu tư, doanh nghiệp tham gia P2P Lending được yêu cầu bắt buộc phải cung cấp cho khách hàng một lượng thông tin nhất định về nhà đầu tư khi cung cấp sản phẩm và doanh nghiệp tham gia P2P Lending cũng phải có kế hoạch dự phòng khi rủi ro phá sản có thể xảy ra.

Trung Quốc

Tại Trung Quốc, công ty P2P Lending đầu tiên được thành lập vào tháng 6/2007 như là một trang web cho vay trực tuyến. Sau đó, số lượng các đơn vị cung cấp dịch vụ P2P Lending tăng lên nhanh chóng. Thời điểm cao nhất, Trung Quốc có hơn 5.000 công ty và tổng khối lượng giao dịch tương đương khoảng 459 tỷ USD.

Nhìn chung, khung pháp lý điều chỉnh P2P Lending tại Trung Quốc thay đổi qua từng giai đoạn phát triển của P2P Lending. Trong giai đoạn trước năm 2016, Chính phủ Trung Quốc không kiểm soát chặt chẽ thị trường P2P Lending với phương châm để thị trường giải quyết nhu cầu vốn của một bộ phận cá nhân, doanh nghiệp không có khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại. Đặc biệt là với các DNNVV có nhu cầu vốn ngắn hạn, quy mô nhỏ nhưng thường khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng thương mại cũng như các kênh huy động vốn chính thức khác như: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu… Vì vậy, đến tháng 8/2016, dòng tiền trên tất cả các nền tảng P2P Lending đã vượt quá 191 tỷ Nhân dân tệ (29 tỷ USD). Trong đó, một số công ty P2P Lending chuyên cho vay doanh nghiệp và tự chuyển thành công ty tài chính P2B (Peer to Business) như: Guan Yitong, Xinhehui, PPmoney...

Việc không tồn tại các quy định pháp lý để điều chỉnh làm cho hoạt động P2P Lending tại Trung Quốc phát triển nhanh chóng, bên cạnh đó, còn gây ra nhiều thực trạng đáng báo động như: nhiều nền tảng P2P Lending đã bỏ trốn và chấm dứt hoạt động kinh doanh, thậm chí có những nền tảng từ lúc xuất hiện đến lúc chấm dứt hoạt động chỉ trong 3 ngày…

Trước tình trạng P2P Lending phát triển quá nóng với khối lượng giao dịch lớn và xuất hiện nhiều hiện tượng biến tướng khó kiểm soát, Chính phủ Trung Quốc phải can thiệp mạnh để ngăn chặn ảnh hưởng lớn đến an toàn hệ thống tài chính và ổn định đời sống kinh tế - xã hội. Một nhóm gồm 10 bộ và ủy ban đã phối hợp ban hành Hướng dẫn thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của tài chính Internet và là văn bản quy định toàn diện đầu tiên của Chính phủ Trung Quốc về P2P Lending. Theo đó, P2P Lending là hình thức kinh doanh ngân hàng và chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý ngân hàng. Ủy ban Quản lý ngân hàng Trung Quốc (CBRC) thực hiện trách nhiệm giám sát hoạt động P2P Lending. Tháng 8/2016, CBRC đã phát hành bộ quy tắc toàn diện đầu tiên là “Các biện pháp tạm thời về quản lý hoạt động kinh doanh của các trung gian thông tin cho vay trực tuyến”; trong đó, P2P Lending được xác định như một trung gian thông tin. Tuy nhiên, các chính sách giám sát lỏng lẻo dẫn đến các công ty P2P Lending huy động vốn bất hợp pháp hoặc theo mô hình đầu tư đa cấp nở rộ.

Từ năm 2017, Trung Quốc bắt đầu phân cấp rõ ràng trong giám sát cũng như đánh giá tất cả các nền tảng P2P Lending, đồng thời, xây dựng các chính sách quản lý thị trường chặt chẽ. CBRC giám sát và điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các nền tảng P2P Lending, hướng dẫn các cơ quan quản lý địa phương giám sát về mặt thể chế và quản lý rủi ro. Hơn nữa, một loạt các quy tắc về việc đăng ký, công bố thông tin và giám sát kinh doanh cũng được ban hành.

Năm 2018, Chính phủ Trung Quốc tiếp tục bổ sung 10 biện pháp tăng cường kiểm soát các nền tảng P2P Lending. Kết quả là hàng loạt các đơn vị cung cấp dịch vụ P2P Lending sụp đổ, số nợ không trả được xác định lên tới 177 tỷ USD, tương đương với tổng quy mô nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Trung Quốc cuối năm 2019. Đến nay, cùng với những chính sách cứng rắn của Chính phủ, thị trường P2P Lending với cá nhân của Trung Quốc đã gần như không còn hoạt động.

Nhật Bản

Ngược lại với Trung Quốc, thị trường P2P Lending tại Nhật Bản mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng hoạt động khá hiệu quả. Phần lớn nguồn vốn được sử dụng để cho vay đối với các DNNVV từ nhiều ngành khác nhau, bao gồm: sản xuất, dịch vụ, bất động sản... Một trong những cách huy động vốn rất hiệu quả là thiết lập “Quỹ quê hương” nhằm thu hút nguồn vốn cho các DNNVV sản xuất, kinh doanh các đặc sản địa phương.

Về khung pháp lý, Cơ quan Dịch vụ Tài chính (FSA) là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm về quy định P2P Lending. Các nền tảng P2P Lending tại Nhật Bản phải tuân thủ theo Luật Công cụ Tài chính được sửa đổi năm 2015. Đồng thời, theo Luật Thương mại, nguồn vốn của nhà đầu tư được thực hiện dưới dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các nền tảng P2P Lending cho vay các doanh nghiệp với tư cách là nhà điều hành của doanh nghiệp (có thể đưa ra những hỗ trợ cần thiết khác về công nghệ, tri thức…), còn người cho vay sẽ cung cấp vốn cho nền tảng P2P Lending với tư cách là nhà đầu tư ẩn danh.

Vì vậy, để hoạt động được, các đơn vị cung cấp dịch vụ P2P Lending phải được cấp phép sau khi đáp ứng các điều kiện về an toàn vốn, lao động, rủi ro… như: Duy trì số vốn tối thiểu là 5 triệu Yên; Duy trì các hoạt động và nhân viên thích hợp để đáp ứng các hướng dẫn tuân thủ; Tiến hành thẩm định người vay các điều kiện về tài chính, kế hoạch kinh doanh và khả năng hoàn trả nợ vay; Duy trì sự minh bạch về các rủi ro, phí và thông tin hợp đồng khác…

Tuy nhiên, sự phá sản của một nền tảng cho vay - P2P Lending vẫn có thể dẫn đến những tổn thất không mong muốn cho các nhà đầu tư. Bởi vì, tiền của các nhà đầu tư được coi là tài sản của nền tảng P2P Lending (khoản 1 Điều 536 Luật Thương mại). Do đó, nếu nền tảng P2P Lending gặp rủi ro, các nhà đầu tư sẽ chỉ được yêu cầu hoàn trả theo cùng tỷ lệ với các chủ nợ thông thường khác. Để đối phó với các nguy cơ này, thông thường, các công ty P2P Lending sẽ phải công bố thêm các mục đích sử dụng với từng nguồn vốn và thành lập các quỹ tín thác cho từng mục đích cụ thể (để tách các khoản vay của nhà đầu tư khỏi các tài sản khác của nền tảng P2P Lending).

Một số gợi mở cho Việt Nam

Hiện nay, ở Việt Nam, trong số hơn 100 công ty fintech được cấp phép, thì có đến 40 công ty có dịch vụ P2P Lending (tiêu biểu như: Tima, Trustcircle, We Cash, Interloan, Lenbiz, Vnvon.com...), trong đó có một số công ty có nguồn gốc từ Trung Quốc, Indonesia hay Singapore. Thực tế, số doanh nghiệp hoạt động P2P Lending có thể nhiều hơn và rất khó đo lường một cách chính xác vì các cơ quan quản lý chưa tổ chức thống kê chính thức các thông tin liên quan đến doanh nghiệp triển khai hoạt động P2P Lending tại Việt Nam.

Một số đang hoạt động khá hiệu quả, nhất là những công ty cho vay nhắm vào phân khúc DNVVV, dần giúp thị trường này trở thành một kênh huy động vốn tiềm năng cho các DNNVV - vốn là đối tượng có nhu cầu vốn hoạt động sản xuất, kinh doanh thay đổi lớn trong quá trình hoạt động cũng như thường phải huy động vốn từ nguồn không chính thức.

Tuy nhiên, một số công ty lấy danh nghĩa mô hình P2P Lending lợi dụng sự thiếu kiến thức của người dân để lừa bịp, gian dối, quảng cáo sai sự thật. Có công ty hứa hẹn lợi nhuận cao, lãi suất cao để lừa đảo, chiếm đoạt tiền vốn của người dân bỏ tiền đầu tư mô hình cho vay này hoặc lừa dối người vay về lãi suất, điều kiện vay trong khi áp mức lãi suất thực tế cao "cắt cổ", tác động tiêu cực đến cuộc sống của người dân.

Một số thỏa thuận giữa các bên tham gia trong mô hình P2P Lending (công ty P2P Lending và nhà đầu tư, công ty P2P Lending và bên thứ ba, công ty P2P Lending và khách hàng vay…) thiếu rõ ràng, thiếu ràng buộc có tính pháp lý, chưa có cơ chế giám sát, hậu kiểm đối với việc sử dụng, quản lý vốn vay đúng mục đích của người đi vay nên có thể dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện giữa các bên.

Mặt khác, về phía Ngân hàng Nhà nước và một số cơ quan liên quan cũng đang gặp phải những thách thức mới trong công tác quản lý nhà nước với sự xuất hiện của các công ty fintech khi chưa có khung pháp lý toàn diện hoặc quy định pháp lý cụ thể để điều chỉnh. Từ đó, tiềm ẩn rủi ro, hệ lụy tiêu cực trên một số phương diện như: cạnh tranh công bằng, ổn định tài chính, an ninh mạng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Để hoạt động P2P Lending an toàn, trở thành kênh cung ứng vốn hiệu quả, qua nghiên cứu kinh nghiệm tại một số quốc gia, tác giả rút ra bài học cho Việt Nam như sau:

Thứ nhất, cần công nhận hoạt động P2P Lending và cho phép hoạt động của các công ty P2P lending. Qua kinh nghiệm từ sự sụp đổ của mô hình P2P Lending tại Trung Quốc, việc các cơ quan quản lý không đưa ra quy định điều chỉnh đối với các mô hình kinh doanh mới sẽ dẫn đến những hành vi có dấu hiệu trái pháp luật gây thiệt hại về quyền lợi cho người tiêu dùng. Do vậy, các cơ quan chức năng cần có cách tiếp cận hiệu quả hơn để không vấp phải những thiệt hại không mong muốn như thị trường P2P Lending Trung Quốc.

Theo đó, cần có định nghĩa về P2P Lending để xác định khung pháp lý quản lý phù hợp (cơ quan quản lý là Ngân hàng Nhà nước, áp dụng các luật liên quan), trước mắt có thể là cơ chế quản lý thử nghiệm, lựa chọn mô hình vận hành đảm bảo an toàn cho các bên tham gia (tham khảo áp dụng mô hình Nhật Bản, Mỹ). Hoàn thiện các quy định, giải pháp về dữ liệu, cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa tổ chức tín dụng và Fintech, Bigtech… để tạo điều kiện cho phát triển hệ sinh thái tài chính số nói chung và P2P Lending nói riêng.

Thứ hai, xây dựng cơ chế cấp phép đối với công ty P2P Lending trên cơ sở xác định các tiêu chuẩn về vốn tối thiểu, năng lực về công nghệ, tiêu chuẩn đội ngũ quản lý và nhân viên… Trong đó, các công ty P2P Lending khi thành lập phải xây dựng được một hệ thống chấm điểm rủi ro tín dụng công khai, minh bạch. Đặc biệt là các yêu cầu về quản lý rủi ro lan truyền đến thị trường tài chính thông qua khuyến khích các công ty P2P Lending có cơ chế phòng vệ hợp lý thông qua quỹ dự phòng rủi ro tín dụng.

Thứ ba, quy định về đảm bảo an toàn hoạt động đối với công ty P2P Lending cùng với chính sách kiểm tra, giám sát định kỳ tương ứng (các quy định về chế độ báo cáo, tuân thủ các yêu cầu về vốn điều lệ, giới hạn vốn huy động, minh bạch thông tin, tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ chủ chốt, hệ thống công nghệ thông tin và quản lý rủi ro, quỹ phòng ngừa rủi ro, tính tuân thủ…). Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm pháp luật về P2P Lending; xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức hoạt động mà không đăng ký kinh doanh P2P Lending.

Thứ tư, nghiên cứu và áp dụng các biện pháp quản lý và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư tham gia hoạt động P2P Lending để tránh các hệ lụy kinh tế - xã hội trong trường hợp xảy ra rủi ro. Cụ thể là việc thiết lập các quy định và giám sát tuân thủ về các giới hạn đầu tư so với thu nhập của nhà đầu tư, quy định về giới hạn góp vốn của mỗi nhà đầu tư, quy định về quyền tiếp cận thông tin…

Thứ năm, để hoạt động P2P Lending phát triển an toàn, hiệu quả, Chính phủ cũng như các bộ, ngành liên quan cần chú trọng nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin quốc gia, nhất là cơ sở dữ liệu định danh cá nhân, chính quyền điện tử… cũng như chú trọng yêu cầu về quản lý rủi ro công nghệ thông tin của hệ thống tài chính - ngân hàng, từ đó không chỉ tạo nền tảng quản lý P2P Lending mà còn hỗ trợ cho cả thị trường tài chính - ngân hàng số nói chung.

Tài liệu tham khảo:

  1. Nguyễn Lê Hoài, Ngô Đình Thiện (2022), Mô hình cho vay ngang hàng trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 02+03 (450+451), tháng 02/2022;
  2. Chang-Hsien Tsai (2019), To Regulate or Not to Regulate: A Comparison of Government Responses to Peer-to-Peer Lending among the United States, China, and Taiwan, University of Cincinnati Law Review, 87(4), 1077 – 1122;
  3. Chen D, Lai F, Lin Z (2014), A trust model for online peer-to-peer Lending: a lender’s perspective, Information Technology and Management,15(4), 239–254;
  4. Davis K, Murphy J (2016), Peer to Peer Lending: structures, risks and regulation;
  5. Digital Finance Service Working Group (DFSWG) (2020), Innovative Regulatory Approaches Toolkit, Alliance for Financial Inclusion;
  6. Gan D (2017), Comparative Analysis of Peer-to-Peer Lending in China and the United Kingdom: An Assessment of the Lending Plaza’s Market Entry.
 
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 6/2023