Vấn đề thể chế hóa quyền tài sản trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN

PGS., TS. Nguyễn Vũ Hoàng - Tạp chí Cộng sản

Quyền tài sản là một trong những quyền dân sự cơ bản của con người. Quyền tài sản có vai trò ngày càng quan trọng và chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của một doanh nghiệp hoặc tổ chức trong nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại.

Quyền tài sản có vai trò ngày càng quan trọng và chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của một doanh nghiệp. Nguồn: Internet
Quyền tài sản có vai trò ngày càng quan trọng và chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của một doanh nghiệp. Nguồn: Internet
Vì vậy, thể chế hóa quyền tài sản không chỉ nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người, mà còn bảo đảm cho hình thành đầy đủ, đồng bộ các chủ thể của kinh tế thị trường, các yếu tố của thị trường vận hành thông suốt. Trên ý nghĩa đó, Đại hội XII của Đảng trong khi chỉ rõ định hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã nhấn mạnh đến yêu cầu bức thiết của việc thể chế hóa quyền tài sản.

Quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước

Sau hơn 30 năm chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Việt Nam đã hình thành những điều kiện cần thiết để tiến tới một nền KTTT đầy đủ hơn thông qua việc thừa nhận sở hữu tư nhân và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển; cải thiện quyền tự do giao dịch, lao động; tự do tiền tệ; tự do đầu tư; giao đất cho tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài và có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, chuyển đổi, cho hoặc tặng, góp vốn để kinh doanh; nỗ lực hình thành đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế...

Vấn đề thể chế hóa quyền tài sản có nội hàm rộng, bao gồm cả việc xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền tài sản. Ví dụ, về thời điểm xác lập quyền sở hữu và các quyền tài sản khác, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

1- Việc xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản, trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác;

2- Trường hợp tài sản đã được chuyển giao trước thời điểm hợp đồng được giao kết thì quyền sở hữu và vật quyền khác được xác lập kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác;

3- Trường hợp luật quy định việc chuyển giao vật phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì thời điểm xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký, trừ trường hợp luật khác có quy định khác.

Thể chế hóa quyền tài sản trong xây dựng, hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta đã được quan tâm ghi nhận từ lâu trong các văn kiện của Đảng. Kết luận số 103-KL/TW, ngày 29-9-2014, của Bộ Chính trị, Về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã chỉ rõ:

“Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Thể chế hóa quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được xác lập trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công; quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền sở hữu, nhất là các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế”.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục ghi nhận vấn đề thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013.

Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản(1).

Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định đường lối, phương hướng cho việc tạo lập cơ sở thể chế hóa quyền tài sản trong xây dựng, hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.

Báo cáo chỉ rõ: “Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả thi các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch”, ‘‘Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, an toàn, thuận lợi...”, “Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính, tiền tệ, bất động sản, lao động, khoa học, công nghệ,... đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội...”, “Phát triển thị trường tài chính, các thị trường mua bán nợ, công cụ tài chính phái sinh, cho thuê tài sản,...”, ‘‘Hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách và có giải pháp phù hợp tạo điều kiện thuận lợi phát triển bền vững thị trường bất động sản, bảo đảm vận hành thông suốt, hiệu quả. Phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất, bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nhất là đối với đất nông nghiệp để khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất”,(2)...

Những quan điểm nói trên thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng đối với vấn đề thể chế hóa quyền tài sản, khẳng định thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất, thể chế hóa quyền tài sản, bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân... Từ sự phát triển đó, Đại hội XII đã có bước phát triển mới rất rõ nét, xác định đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

Chính sách, pháp luật của Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa đường lối của Đảng đối với quyền tài sản. Hiến pháp năm 2013 quy định khái quát theo hướng “mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”, “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.

Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa”, “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường”.

Bộ luật Dân sự năm 2015 về cơ bản đã cụ thể hóa thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 theo hướng bên cạnh quyền sở hữu, quy định cụ thể hơn về quyền của các chủ thể khác không phải là chủ sở hữu đối với tài sản của người khác theo quy định của luật (các quyền khác ngoài quyền sở hữu) nhằm khuyến khích chủ sở hữu đầu tư, chuyển giao tài sản cho người khác để khai thác, sử dụng, qua đó thúc đẩy thị trường phát triển, phát huy cao nhất giá trị hàng hóa của tài sản. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rõ: “- Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản;

- Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường”(3).

Theo Bộ luật Dân sự năm 2015(4), quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật. Để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn, thuận lợi hơn cho việc khai thác, sử dụng một cách hiệu quả các tài sản, các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và để tạo cơ chế pháp lý cho các chủ thể không phải là chủ sở hữu thực hiện quyền đối với tài sản thuộc sở hữu của chủ thể khác, bảo đảm khai thác được nhiều nhất lợi ích trên cùng một tài sản, bảo đảm trật tự, ổn định các quan hệ có liên quan, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã sửa đổi quy định về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và bổ sung quy định về quyền hưởng dụng, quyền bề mặt.

Bộ luật Dân sự năm 2015 đã cung cấp cơ sở pháp lý cho quan niệm về tài sản (Điều 105), theo đó tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Đặc biệt, Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ rõ: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.

Các quy định về quyền tài sản còn được quy định trong nhiều văn bản luật khác, như Luật Đất đai, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Nhà ở, Luật Công chứng, Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bất động sản,...

Một số vướng mắc trong triển khai thể chế hóa các loại quyền tài sản

Về quyền sở hữu:

- Một trong những vướng mắc lớn nhất hiện nay là chưa có cách hiểu thống nhất về việc thế chấp, cầm cố tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho người khác. Theo đó, có tổ chức tín dụng đồng ý xác lập giao dịch bảo đảm này, có tổ chức thì không. Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại tòa án cũng xuất hiện 2 quan điểm: quan điểm thứ nhất chấp nhận giao dịch bảo đảm dưới dạng cầm cố, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự cho người khác và quan điểm thứ hai không chấp nhận giao dịch bảo đảm thế chấp, cầm cố mà coi bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh.

- Hệ thống quy định hiện hành chưa có quy định cụ thể về các quyền tài sản thông thường cũng như tài sản hình thành trong tương lai.

Về quyền sử dụng đất:

Đến nay cả nước đã cấp được 41.757.000 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 22.963.000ha, đạt 94,9% diện tích cần cấp các loại đất chính. Tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều cơ bản hoàn thành mục tiêu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghị quyết số 30/2012/QH13, ngày 21-6-2012, của Quốc hội, Về chất vấn và trả lời chất vấn. Tuy nhiên, hiện tại còn khá nhiều vướng mắc đối với việc thực thi các quy định về quyền sử dụng đất:

- Một số quy định pháp luật thiếu minh bạch, chưa đầy đủ, thống nhất, một số quy định pháp luật chưa phù hợp với thực tế, không hợp lý hoặc thiếu tính khả thi(5).

Một số quy định chưa bảo đảm tính minh bạch hoặc chưa thực sự rõ ràng, đầy đủ, gây khó khăn trong tổ chức cũng như triển khai hoạt động của các doanh nghiệp, như quy định về điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quy định về nguyên tắc xác định giá đất phải sát giá thị trường trong điều kiện bình thường còn chưa được lý giải một cách đầy đủ; quy định về xử lý quyền sử dụng đất khi doanh nghiệp bị phá sản gây nhiều cách hiểu khác nhau...

Một số quy định liên quan đến quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất trong Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Công chứng,... và các văn bản hướng dẫn chưa thống nhất, gây khó khăn cho việc thực hiện. Qua thực tế giải quyết thủ tục hành chính cho thấy, không ít hợp đồng, giao dịch đã được công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng bị cơ quan đăng ký đất đai từ chối giải quyết hoặc phải sửa đổi, bổ sung do chưa đúng quy định của pháp luật đất đai hoặc chưa chặt chẽ pháp lý, chưa đủ điều kiện để giải quyết hồ sơ.

Có thể viện dẫn một số trường hợp, như tài sản chưa được chứng nhận quyền sở hữu vẫn được chuyển quyền, chuyển nhượng nhà ở nhưng hiện trạng nhà ở đã thay đổi so với giấy chứng nhận đã cấp (do xây dựng lại hoặc cải tạo, sửa chữa); chuyển quyền sử dụng đất nhưng thửa đất đã có quyết định thu hồi một phần hoặc toàn bộ thửa đất hoặc đang có tranh chấp;

Người nước ngoài mua nhà ở không thuộc dự án phát triển nhà ở; người nhận chuyển nhượng đất trồng lúa không trực tiếp sản xuất nông nghiệp hoặc không cư trú tại nơi có đất; thời hạn sử dụng đất nông nghiệp đã hết nhưng vẫn được chuyển nhượng; chuyển quyền sử dụng đất đối với một phần thửa đất nhưng chưa thực hiện thủ tục tách thửa hoặc không đủ điều kiện tách thửa...

Gần đây, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP, ngày 6-1-2017, của Chính phủ, Về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định chi tiết về thi hành Luật Đất đai năm 2013 chính thức có hiệu lực từ ngày 3-3-2017. Nghị định đã góp phần giải quyết một số vướng mắc liên quan đến tài sản gắn liền với đất.

- Trong việc xác định đối tượng giao dịch là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ, chồng: Khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi thông tin của cá nhân thì dựa vào thông tin này chưa cho phép xác định quyền sử dụng đất đó là tài sản của cá nhân hay là tài sản chung của vợ, chồng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do thiếu hay không chính xác về thông tin người sử dụng đất nên đã không thể hiện được vai trò của nó trong việc chứng minh một người nào đó là người có quyền định đoạt tài sản.

- Trong xác định quyền sử dụng đất đủ điều kiện giao dịch hay không: Không ít trường hợp người sử dụng đất vẫn tiến hành chuyển nhượng khi chưa đủ điều kiện chuyển nhượng và các tổ chức hành nghề công chứng vẫn thực hiện công chứng giao dịch. Nguyên nhân là do thông tin trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa thực sự minh thị nên người có thẩm quyền không có đủ cơ sở xác định diện tích đất này chưa đủ điều kiện để giao dịch.

- Đối với các quy định việc giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng phải đồng thời với việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý, nhưng chưa quy định rõ cơ chế phối hợp giữa cơ quan lâm nghiệp và cơ quan tài nguyên môi trường và hỗ trợ kinh phí để thực hiện những quy định trên.

- Còn tồn tại một số bất cập giữa các luật chuyên ngành, như Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học... về quản lý, bảo vệ đất đai gắn với quyền sử dụng đất, rừng. Ví dụ, Luật Đất đai quy định cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giao, cho thuê có thu tiền, trong khi Luật Bảo vệ và phát triển rừng không cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng rừng sản xuất là rừng tự nhiên...; việc phân cấp lập, thẩm định dự án, quyết định thành lập khu bảo tồn, thành lập vườn quốc gia còn chồng chéo, dẫn tới khó áp dụng thống nhất trên thực tế.

Về quyền sở hữu trí tuệ:

Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ diễn ra đồng thời ở tất cả các lĩnh vực, như sản xuất, chế biến, lưu thông, xuất - nhập khẩu và liên quan tới nhiều thành phần kinh tế, như tư nhân, nhà nước, liên doanh và thậm chí là thành phần 100% vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn diễn ra ở hầu hết các đối tượng sở hữu trí tuệ.

Trên thị trường, hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng khó phân biệt, nhiều mặt hàng rơi vào tình trạng thật - giả lẫn lộn, rất khó nhận biết. Đặc biệt, việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã xuất hiện ở nhóm hàng hóa có khả năng gây hậu quả nghiêm trọng đối với người tiêu dùng và xã hội, như thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, sắt, thép xây dựng...

Định hướng và giải pháp

Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020 của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ ra những cơ sở lý luận cho việc tiếp tục thể chế quyền tài sản ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, an toàn, thuận lợi(6)...

Để thể chế hóa có hiệu quả các quy định về quyền tài sản nhằm đạt được mục tiêu nêu tại Văn kiện Đại hội XII của Đảng, trước mắt cần lưu ý các vấn đề sau:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt các quan điểm của Đảng trong Văn kiện Đại hội XII; cụ thể hóa những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của thể chế KTTT định hướng XHCN được ghi nhận trong Hiến pháp về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế...; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự.

Thứ hai, quy định cụ thể các quyền tài sản thông thường được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng như có hướng dẫn cụ thể về tài sản hình thành trong tương lai, bao gồm tài sản chưa hình thành và tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch. Cần sớm ban hành nghị định quy định các biện pháp thi hành Bộ luật Dân sự năm 2015 về giao dịch bảo đảm.

Thứ ba, cần làm rõ hơn các quy định về thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm, tổ chức công chứng. Sớm ban hành nghị định về đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm thực hiện Bộ luật Dân sự năm 2015.

Thứ tư, cụ thể hóa thông tin của các thành viên tại hộ gia đình sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm sự minh thị trong xác định việc đủ điều kiện giao dịch.

Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện một cách đồng bộ các quy định về quyền tài sản bao gồm cả xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền tài sản.

Thứ sáu, đẩy mạnh việc kiện toàn văn phòng đăng ký đất đai, tổ chức phát triển quỹ đất một cấp theo quy định của Luật Đất đai năm 2013.

Thứ bảy, xây dựng được hệ thống dữ liệu thông tin đất đai thống nhất, đồng bộ trên cơ sở công nghệ tin học điện tử hiện đại từ Trung ương đến địa phương và đầu tư đồng bộ để có được hệ thống hồ sơ địa chính cơ sở (hồ sơ gốc) có độ tin cậy cao ở tất cả các địa phương. Thống nhất phương pháp phân loại, quản lý hồ sơ đất đai và công khai thông tin từ Trung ương đến địa phương.

Thứ tám, thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sáng tạo; thúc đẩy đổi mới, chuyển giao công nghệ và các giao dịch về tài sản trí tuệ; tăng cường hiệu quả công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc thể chế hóa này cần bảo đảm được các nội dung: Một là, bảo đảm lợi ích quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế, đồng thời tôn trọng các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam đã và sẽ tham gia. Hai là, bảo đảm cân bằng lợi ích giữa người sáng tạo, nhà sử dụng và công chúng hưởng thụ để tạo động lực thúc đẩy phát triển hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.

Thứ chín, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng bảo đảm minh bạch, đầy đủ, thống nhất, phù hợp với thực tế, hợp lý và có tính khả thi. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cần bảo đảm được các yêu cầu sau đây:

- Tính ổn định: Đây là yêu cầu cần thiết, bởi không thể thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp luật.

- Tính chuẩn mực: Pháp luật là hệ thống các quy phạm, tức là các chuẩn mực. Giá trị của pháp luật chính là tạo ra các chuẩn mực cho các chủ thể khác nhau trong đời sống xã hội.

- Tính toàn diện: Đây là tiêu chuẩn cơ bản thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật, cũng là tiêu chí hàng đầu để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật.

- Tính thống nhất: Đây là điều kiện tiên quyết cho sự hợp thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Điều đó đòi hỏi xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật phải bảo đảm sự thống nhất từ Hiến pháp là đạo luật gốc đến các luật có liên quan.

- Tính minh bạch: Tính minh bạch của pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Một mặt, cần làm rõ các yếu tố động lực để bộ máy nhà nước, quan chức nhà nước phải minh bạch, tìm hiểu các yếu tố kìm hãm công khai, minh bạch. Mặt khác, cần tập trung vào việc nâng cao mức độ minh bạch đối với từng ngành, lĩnh vực cụ thể do mức độ minh bạch trong các lĩnh vực không đồng đều nhau.

Tài liệu tham khảo

(1), (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 104 - 105, 273 - 276

(3) Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 163 về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản

(4) Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 158 về quyền sở hữu, Điều 159 về quyền khác đối với tài sản

(5) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Báo cáo tổng hợp rà soát pháp luật kinh doanh, tháng 11-2011

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 274