Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng: Nhiều giải pháp để giảm nợ công

Theo thoibaotaichinhvietnam.vn

(Tài chính) Ngày 10/6, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã đăng đàn trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội. Một số vấn đề "nóng" trong lĩnh vực tài chính đã được Bộ trưởng nêu rõ trong bài trả lời phỏng vấn.

Doanh nghiệp trực tiếp vay nợ, phải tự chịu trách nhiệm trả nợ

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, nhiều ý kiến tỏ ra lo ngại khi  tình hình nợ công trong những năm gần đây có xu hướng tăng, và băn khoăn về tiêu chí trong cách tính nợ công của Việt Nam so với các nước, Bộ trưởng nhận định thế nào về vấn đề này?

 Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng: Nhiều giải pháp để giảm nợ công - Ảnh 1
Bộ trưởng Bộ Tài chính
Đinh Tiến Dũn
g
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Theo số liệu tuyệt đối, nợ công trong những năm gần đây có xu hướng tăng. Tuy nhiên, nếu so với GDP thì tỷ lệ thay đổi không nhiều (tỷ lệ nợ công trên GDP qua các năm là 51,7% (2010), 50,1% (2011), 50,8% (2012) và 54,1% (ước tính năm 2013) hiện ở dưới mức theo quy định của Nghị quyết của Quốc hội là 65%.

Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nguồn vốn của Nhà nước tích lũy từ nội bộ nền kinh tế cho đầu tư phát triển còn chưa lớn, để có nguồn đáp ứng cho nhu cầu phát triển của đất nước, cần phải huy động nguồn tài chính bổ sung cho đầu tư phát triển, đặc biệt là cơ sở hạ tầng. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến nợ công tăng trong thời gian qua.

Về cơ cấu nợ công, khoảng 50% là nợ nước ngoài với điều kiện vay cơ bản là ưu đãi, với thời gian đáo hạn còn lại khoảng 15 năm; 50% còn lại là khoản vay trong nước thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn phần lớn nằm trong khoảng từ 2-5 năm.

Do vậy, áp lực về vay mới để trả các khoản vay cũ trong nước là tương đối lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do thị trường vốn trong nước còn chưa phát triển, đối tượng mua trái phiếu Chính phủ phần lớn là các ngân hàng thương mại (NHTM) trong khi cơ cấu nguồn vốn của các NHTM chủ yếu là không kỳ hạn hoặc có thời hạn ngắn.

Trên thế giới hiện chưa có tiêu chí về phạm vi nợ công áp dụng chung cho các quốc gia. Phạm vi nợ công của phần lớn các nước bao gồm nợ Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh.

Đối với Việt Nam, theo quy định của Luật Quản lý nợ công hiện hành, nợ công đã bao gồm: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.

Đối với nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB), đây là khoản nợ phát sinh do cần thiết đẩy nhanh tiến độ một số dự án trọng điểm, do chấp hành kỷ luật tài chính ở một số nơi chưa nghiêm.

Do vậy, cần thực hiện đúng Nghị quyết Quốc hội, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện cân đối vốn dự toán để thanh toán các khoản nợ đọng của các công trình trong danh mục đã được phê duyệt, phấn đấu tăng thu để có nguồn xử lý nợ đọng XDCB.

Hiện nay các khoản nợ của Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được Chính phủ bảo lãnh, nợ vay về cho vay lại của Chính phủ đã được tính trong phạm vi nợ công.

Các khoản vay nợ của DN không được tính trong nợ công bởi DN là người trực tiếp đi vay nợ để đầu tư và có nghĩa vụ trả nợ. DN phải tự chịu trách nhiệm trả nợ.

Với tổng mức dư nợ công hiện nay (54,1% GDP) và dự kiến bội chi NSNN đến năm 2015 và giai đoạn 2016-2020, theo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Quốc hội; khi đó để đảm bảo khả năng trả nợ cần phải thực hiện những nhiệm vụ gì, thưa Bộ trưởng?

Thực hiện nhiệm vụ ngân sách phải đạt yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ đề ra trong Chiến lược phát triển ngành tài chính đến năm 2020 và kế hoạch năm 2011-2015, phải đạt tăng thu 12-14%/năm, cân đối NSNN vững chắc, bội chi hợp lý, dành khoảng 20% tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ.

Các khoản vay bù đắp bội chi cơ bản sử dụng cho đầu tư phát triển và thực hiện quản lý, sử dụng hiệu quả, giải ngân đúng tiến độ, đúng quy định.

Cơ bản không vay nước ngoài thương mại, lãi suất cao, thời gian ngắn, kể cả đối với các khoản vay để cho vay lại.

Nâng cao hiệu quả Quỹ tích lũy trả nợ để đảm bảo nguồn trả nợ của các khoản vay về cho vay lại, định kỳ đánh giá những rủi ro của nợ công để có biện pháp xử lý kịp thời và cơ cấu lại nợ một cách hiệu quả.

Xin Bộ trưởng nói rõ hơn về giải pháp giảm nợ công để đảm bảo an toàn nền tài chính quốc gia?

Để giảm nợ công, cần thực hiện cân đối ngân sách tích cực, từng bước giảm bội chi NSNN so với GDP, bố trí nguồn để trả nợ trong nước, ngoài nước đến hạn hàng năm theo đúng cam kết.

Trong quá trình điều hành NSNN, phấn đấu tăng thu để sử dụng một phần hợp lý để tăng chi trả nợ;

Bên cạnh đó, cần có kế hoạch thực hiện cơ cấu lại nợ, giảm các khoản vay lãi suất cao, thời hạn ngắn, tăng trái phiếu trong nước có kỳ hạn dài (5 năm, 10 năm hay 15 năm), lãi suất phù hợp với chỉ số lạm phát hiện nay.

Đồng thời, thực hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với các khoản vay về cho vay lại, các khoản bảo lãnh cho DN, định kỳ kiểm tra, xử lý kịp thời những vướng mắc, những vi phạm; Tập trung xử lý các khoản nợ vay về cho vay lại trong quá trình tái cơ cấu, cổ phần hóa DNNN.

Đã giải quyết kịp thời các giải pháp hỗ trợ DN

Thưa Bộ trưởng, trước những thiệt hại của một số DN tại các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Hà Tĩnh bởi một số kẻ quá khích vừa qua, được biết Bộ Tài chính đã có chỉ đạo sát sao, cập nhật kịp thời hỗ trợ các DN khắc phục hậu quả, khôi phục sản xuất kinh doanh, ổn định tâm lý và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Xin Bộ trưởng cho biết kết quả thực hiện công tác hỗ trợ DN đến thời điểm hiện nay như thế nào?

Trước những diễn biến tình hình thiệt hại của DN, Bộ Tài chính đã vào cuộc, liên tục xúc tiến các đoàn kiểm tra nắm bắt tình hình để có các chỉ đạo sát sao, ứng biến nhanh đối với các biện pháp hỗ trợ DN;

Đồng thời, liên tục có báo cáo với Thủ tướng Chính phủ xin ý kiến chỉ đạo. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã liên tục ra công điện, công văn hướng dẫn đơn vị trong ngành triển khai kịp thời các biện pháp hỗ trợ DN.

Các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính đều yêu cầu, giao trách nhiệm cụ thể cho cơ quan tài chính địa phương trong việc chủ động triển khai cũng như phối hợp chặt chẽ với các cơ quan khác tại địa phương triển khai các giải pháp hỗ trợ DN.

Bộ Tài chính cũng giao Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan và cơ quan quản lý giám sát bảo hiểm trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo thường xuyên các Cục Thuế, Cục Hải quan và các DN bảo hiểm nơi có DN bị thiệt hại tổ chức thực hiện và liên tục báo cáo, cập nhật và kịp thời giải quyết các vướng mắc phát sinh.

Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đã thành lập Tổ công tác hỗ trợ DN bị thiệt hại do một đồng chí Lãnh đạo Bộ làm tổ trưởng; cử các cán bộ tham gia các Tổ công tác liên Bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động Thương binh và xã hội để tham gia công tác tổ chức, triển khai thực hiện các giải pháp, kịp thời tháo gỡ vướng mắc phát sinh và đề xuất những giải pháp hỗ trợ thêm cho DN bị thiệt hại nặng.

Việc triển khai thực hiện trong tình hình rất khẩn trương và gặp nhiều khó khăn, nhất là việc đánh giá đúng giá trị thiệt hại của DN là cơ sở để áp dụng các giải pháp hỗ trợ. Tuy nhiên, theo báo cáo của các cơ quan tại địa phương đã đạt được một số kết quả tích cực như sau:

  Về công tác bồi thường bảo hiểm: Tính đến hết ngày 4/6/2014, đã có 11 DN bảo hiểm xác định được 112 tỷ đồng số tiền bồi thường cho 113 DN bị thiệt hại, trong đó có 87 nhà đầu tư Đài Loan với số tiền 59,5 tỷ; 2 nhà đầu tư Singapore với số tiền 26,3 tỷ đồng; 4 nhà đầu tư Hồng Kông với số tiền 21,8 tỷ; 3 nhà đầu tư Hàn Quốc với số tiền 3,3 tỷ đồng ...

Chiều ngày 6/6/2014 tại tỉnh Bình Dương, Bộ Tài chính cùng Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, UBND tỉnh Bình Dương, đại diện các DN bảo hiểm và các cơ quan liên quan đã tổ chức buổi trao tiền tạm ứng bồi thường cho  113 DN bị thiệt hại có tham gia bảo hiểm với số tiền 112,76 tỷ đồng.

  Về công tác hỗ trợ thuế, hải quan:

Theo danh sách DN bị thiệt hại, các Cục Thuế đã chủ động gia hạn nộp hồ sơ khai thuế đối với các DN chưa quay trở lại hoạt động (40 DN đang ngừng hoạt động: Bình Dương 37 DN, Hà Tĩnh: 3 DN); không thông báo nhắc nộp hồ sơ khai thuế để chờ tiếp nhận đề nghị gia hạn hồ sơ khai thuế đối với tất cả các DN đã quay trở lại hoạt động; đã chủ động không thông báo đôn đốc nợ thuế, không tính tiền chậm nộp đối với toàn bộ DN có số tiền thuế nợ đến thời điểm hiện nay để chờ các DN đề nghị gia hạn nợ thuế.

Tính đến hết ngày 6/6/2014, đã có 51 DN thuộc tỉnh Bình Dương đã quay trở lại hoạt động và có văn bản gửi đến cơ quan thuế đề nghị gia hạn nộp hồ sơ khai thuế và được cơ quan thuế giải quyết kịp thời;

Có 08 DN gửi văn bản đến cơ quan thuế đề nghị gia hạn thời hạn nộp đối với số thuế còn nợ (Bình Dương: 6 DN, Đồng Nai: 1 DN, TP HCM: 1 DN);

Đã thực hiện hoàn thuế GTGT cho một số DN bị thiệt hại với số tiền thuế khoảng 486 tỷ đồng.

Các Cục thuế cũng đã tạm thời dừng tính tiền chậm nộp thuế của các DN bị thiệt hại với số tiền nợ thuế gần 214 tỷ đồng, trong đó, Bình Dương là 73,13 tỷ đồng, Hà Tĩnh là 2,25 tỷ đồng, Tp. HCM là 64,5 tỷ đồng.

Các Cục Hải quan đã hỗ trợ giải quyết thủ tục hành chính, khôi phục chứng từ cho 33 DN (Đồng Nai 14 DN, Bình Dương 19 DN); thực hiện thông quan hàng hoá cho hàng chục tờ khai NK của DN bị thiệt hại còn có nợ thuế.

Đây mới chỉ là những kết quả bước đầu và cần có thêm thời gian để thấy rõ hơn kết quả và hiệu quả của các giải pháp. Nhưng có thể thấy những nỗ lực, biện pháp kịp thời của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan đã đóng góp tích cực vào việc giúp đỡ, hỗ trợ hơn 900 DN bị thiệt hại khắc phục khó khăn, quay trở lại hoạt động, ổn định tâm lý nhà đầu tư và môi trường đầu tư tại Việt Nam.

Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!