Ngành công nghiệp phụ trợ và bài toán nguồn nhân lực thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0


Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực đứng trước nhiều thách thức mới khi một phần lao động của con người đang được thay thế bằng các công nghệ mới.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Để đưa ra lời giải cho bài toán nguồn nhân lực trong thời gian tới, bài viết phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngành Công nghiệp phụ trợ của Việt Nam, qua đó khẳng định nguồn nhân lực là một trong những yếu tố then chốt cho sự phát triển của ngành Công nghiệp phụ trợ, đồng thời, đề xuất một số giải pháp tầm nhìn đến năm 2030.

Tổng quan về công nghiệp phụ trợ

Khái niệm công nghiệp phụ trợ

Công nghiệp phụ trợ (CNPT) là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò phụ trợ cho việc sản xuất các thành phần chính. Cụ thể, những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm… và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Sản phẩm CNPT thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa. Theo GS. Kenichi Ohno, có thể phân chia lĩnh vực CNPT thành 3 nhóm lớn như sau:

Nhóm thứ nhất, CNPT cung cấp máy móc công cụ và trang thiết bị cho nhiều ngành công nghiệp, bao gồm công nghiệp lắp ráp, chế biến và công nghiệp hỗ trợ khác.

Nhóm thứ hai, CNPT cho công nghiệp chế biến cung cấp nguyên phụ liệu cho công nghiệp chế biến như dệt may, da giày… Các ngành CNPT này trước kia không đòi hỏi nhân lực có kỹ năng cao, tuy nhiên trong thời kỳ cách mạng 4.0 khi quy mô sản xuất, các thiết bị máy móc có sự thay đổi thì yêu cầu nhân lực sẽ ở tầm cao hơn.

Nhóm thứ ba, CNPT cho ngành công nghiệp lắp ráp cung cấp linh kiện, phụ tùng cho công nghiệp lắp ráp như ô tô, xe máy, điện tử…. Các ngành công nghiệp hỗ trợ này đòi hỏi lao động có kỹ năng cao hơn, sản phẩm chủ yếu là các linh kiện kim loại, nhựa cao su, yêu cầu đáp ứng với các tiêu chuẩn chung và có ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm (Kennichi Ohno, 2007).

Như vậy, CNPT là ngành tạo ra sản phẩm sử dụng chung cho nhiều ngành sản xuất khác nhau, bao hàm trong đó nhiều lĩnh vực, nhiều loại kỹ thuật – công nghệ, gồm: Ngành sản xuất linh kiện nhựa; Ngành sản xuất linh kiện thủy tinh; Ngành sản xuất linh kiện kim loại màu; Ngành sản xuất hóa chất; Các ngành sản xuất nguyên liệu thô.

Vai trò của ngành Công nghiệp phụ trợ

Ngành CNPT ngoài có vai trò tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa, CNPT đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa theo hướng vừa rộng vừa sâu.

Công nghiệp hỗ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí tổn chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu vào.

Đó là chưa nói đến sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu và gia tăng nhập siêu, ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thương mại quốc gia (thâm hụt thương mại). Công ty đa quốc gia sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý dây chuyền cung cấp nếu phải nhập khẩu phần lớn linh kiện bộ phận, và các sản phẩm CNPT khác. Vì lý do này, CNPT không phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ thiếu sức cạnh tranh và phạm vi cũng giới hạn trong một số ít các ngành.

Vai trò của ngành Công nghiệp phụ trợ đối với phát triển kinh tế Việt Nam

- Đóng góp vào giải quyết việc làm: Theo thống kê số liệu của Bộ Công Thương, số DN đang hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ hiện chiếm gần 4,5% tổng số DN. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo việc làm cho hơn 550.000 lao động. Các ngành công nghiệp dệt – may, da – giày, cơ khí chế tạo, điện tử – tin học, chế biến gỗ thu hút nhiều lao động vào làm việc. Năm 2018 các nhóm ngành này thu hút 864,7 ngàn người, chiếm 77,2% lao động toàn ngành công nghiệp. Tốc độ tăng bình quân lao động làm việc ở các nhóm ngành này giai đoạn 2015 – 2018 đạt 19,25%/năm.

Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế: Ngành CNPT phát triển mạnh kéo theo chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp năm 2017 tăng 9,4% so với năm 2016, năm 2018 tăng 10,6%  so với năm 2017, đạt mức tăng trưởng cao nhất kỳ từ năm 2012 trở lại đây, qua đó đóng góp lớn vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong đó, các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo năm 2017 tăng 14,5%, đóng góp vào tăng trưởng chung toàn ngành công nghiệp với 10,2 điểm phần trăm, năm 2018 tăng 12,9%. Đóng góp 9,9 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.

Bảng 1: Quy mô và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số từ 15 tuổi trở lên

 

2017

2018

1. Dân số 15 tuổi trở lên (triệu người)

 Chung

72,04

77,51

Nam

35,29

35,49

Nữ

36,91

38,02

 Thành thị

25,23

26,07

 Nông thôn

46,97

46,44

2. Lực lượng lao động (triệu người)

 Chung

55,16

56,12

Nam

28,71

28,83

Nữ

26,45

26,29

Thành thị

17,75

18,01

Nông thôn

37,41

37,37

3. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động* (%)

 

76,56

72,40

 

Đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu: Giai đoạn 2015 - 2018 cơ cấu kinh tế theo giá trị sản xuất thực tế các ngành CNPT tăng từ 34,7% năm 2015 lên 51,3% năm 2018. Đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu  kinh tế ngành chủ yếu tập trung chủ yếu vào sản xuất linh kiện ô tô, điện tử, dệt may. Thực tế cho thấy, đóng góp của ngành CNPT chưa tương xứng với tỷ lệ sử dụng lao động của ngành này. Năng suất lao động nhóm ngành CNPT thấp hơn năng suất lao động bình quân toàn ngành công nghiệp.

Tóm lại, trong tương lai đến năm 2020, ngành CNPT sẽ tăng trưởng nhanh, thu hút một lực lượng lớn lao động vào làm việc và tạo ra giá trị sản xuất to lớn.

Nguồn nhân lực ngành Công nghiệp phụ trợ

Thực trạng nguồn nhân lực ngành Công nghiệp phụ trợ Việt Nam

Về độ tuổi tham gia lao động: Với dân số ước tính khoảng 94 triệu người vào năm 2018, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 55,12 triệu người, tăng 1,1% so với năm 2017 và tỉ lệ lao động nữ tăng 0,37%; khu vực thành thị tăng 1,25%.

Số liệu thống kê cho thấy, lực lượng lao động của Việt Nam dồi dào, phong phú nhưng lại thiếu lực lượng kỹ sư có trình độ trung cấp, cao cấp. Số lượng kỹ sư tốt nghiệp đại học được tuyển dụng có đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu về quản lý lại rất thiếu, đặc biệt là ở miền Bắc.

Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo có bằng/chứng chỉ từ 3 tháng trở lên năm 2918 là 15,01 triệu người, tăng 267 nhìn người so với năm 2017. Trong đó, tăng mạnh nhất ở nhóm cao đẳng (11, 37%), tiếp đó là đại học và trên đại học (2,2%) và nhóm sơ cấp nghề chỉ tăng rất nhẹ (0,02%); giảm ở nhóm trung cấp (1,47 %).

Thực tế cho thấy, tỷ lệ nguồn nhân lực cho ngành CNPT ở Việt Nam rất thấp, do ngành nghề trong các lĩnh vực chế tạo thường ít được xã hội coi trọng, với tâm lý khó tìm việc và công việc vất vả. Chính vì vậy, việc giáo dục, đào tạo kỹ sư chế tạo ở các trường đại học, cao đẳng cũng thường ít hơn các ngành khác.

Hạn chế của nguồn nhân lực trong ngành Công nghiệp phụ trợ

Theo đánh giá, hiện nay, nguồn nhân lực còn thiếu và yếu đang là trở ngại lớn của nhiều DN hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ. Nhiều DN công nghiệp hỗ trợ vẫn than thở rằng, đang gặp khó khăn bởi nguồn lực lao động đa phần chưa đáp ứng được yêu cầu. Cụ thể:

Thứ nhất, thể chất của lực lượng lao động còn yếu: Về cơ bản  thể chất của người  lao động của lao động Việt Nam đã được cải thiện nhưng còn thấp so với các nước trong khu vực, thể hiện ở các khía cạnh tầm vóc, sức khỏe, sức bền, khả năng chịu áp lực… đặc biệt thiếu khả năng ứng dụng và tính sáng tạo. Nguồn nhân lực của Việt Nam thiếu sự tích lũy về trình độ công nghệ do sự chậm trễ trong chuyển giao công nghệ, yêu cầu về hiệu suất cao và thiếu sự tin cậy và nhận thức về chất lượng, chi phí, thời hạn giao hàng, dịch vụ và tốc độ.

Thứ hai, nhân lực phục vụ ngành CNPT chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng, chủ yếu là do suất đầu tư thấp, DN và nhà trường chưa hình thành liên kết bền vững hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Ngược lại, chất lượng đào tạo nhân lực thấp đã ảnh hưởng đến chất lượng của các nghiên cứu khoa học ứng dụng, chất lượng kỹ sư, công nghệ viên, kỹ thuật viên và công nhân nói chung.

Thứ ba, về cơ bản đội ngũ lao động Việt Nam giỏi lý thuyết nhưng kém về năng lực thực hành, ứng dụng công nghệ cao, quá trình lao động, ngoại ngữ và hạn chế trong việc thích nghi môi trường có áp lực cạnh tranh cao.

Thứ tư, nhiều DN chưa gắn kế hoạch phát triển nguồn nhân lực với mục tiêu phát triển sản xuất nên có sự hụt hẫng về đội ngũ, không chủ động nguồn. Chất lượng đào tạo thấp đã làm ảnh hưởng đến chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học ứng dụng, chất lượng kỹ sư, công nghệ viên, kỹ thuật viên và công nhân.

Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế trên có nhiều nhưng tựu chung là do quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực ngành CNPT còn nhiều vấn đề bất cập so với yêu cầu. Chưa có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong ngành CNPT một cách toàn diện và dài hạn, mang tầm quốc gia để định hướng các cơ quan, đoàn thể cùng phối hợp hành động.

Hệ thống giáo dục từ cấp phổ thông, đến đào tạo nghề, đại học, sau đại học là lược lượng nòng cốt trong quá trình đạo tạo và phát triển nguồn nhân lực còn nhiều bộc lộ, hạn chế, dù đã trải qua rất nhiều cải cách, đổi mới. Quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực ngành CNPT chưa theo kịp quá trình hội nhập kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng sâu rộng của Việt Nam.

Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Công nghiệp phụ trợ tầm nhìn đến năm 2030

Dự báo nhu cầu nguồn nhân lực

Theo Quyết định số 9028/QĐ-BCT của Bộ Công Thương phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển CNPT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Mục tiêu chung của Quy hoạch nhằm đảm bảo đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Sản phẩm CNPT đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất (đến năm 2030, tỷ lệ này là 70%) tiêu dùng nội địa, xuất khẩu 25% giá trị sản xuất công nghiệp. Thực hiện mục tiêu chung, từ nay đến năm 2020, Việt Nam tập trung phát triển CNPT thuộc 3 lĩnh vực chủ yếu và theo các định hướng sau:

- Lĩnh vực linh kiện phụ tùng kim loại, nhựa – cao su, điện – điện tử, đến năm 2020 đáp ứng 60% nhu cầu sản phẩm linh kiện phụ tùng cho các ngành công nghiệp của ta. Năm 2030 thì đáp ứng 80% nhu cầu này.

- Các ngành công nghiệp cơ khí, ô tô, máy nông nghiệp, điện tử… được ưu tiên phát triển. Hỗ trợ DN sản xuất sản phẩm linh kiện phụ tùng tham gia thị trường khu vực và quốc tế.

- Lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may – da giày, đạt tỷ lệ cung cấp trong nước 65% ngành dệt may, 75-80% ngành da giày.

- Ưu tiên thu hút vào lĩnh vực nguyên vật liệu và phụ liệu phục vụ ngành dệt may, da giày, hình thức các cụm liên kết ngành trong sản xuất CNPT, hỗ trợ ngành dệt may, da giày tại các vùng kinh tế trọng điểm.

- Lĩnh vực CNPT cho công nghiệp công nghệ cao, đồng thời phát triển hệ thống DN cung cấp thiết bị hỗ trợ chuyên dùng, hỗ trợ chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này, hình thành các DN bảo trì, sửa chữa máy móc đạt tiêu chuẩn quốc tế làm tiền đề phát triển DN sản xuất thiết bị, phần mềm phục vụ các ngành công nghiệp công nghệ cao.

- Ưu tiên thu hút đầu tư vào sản xuất vật liệu chế tạo như thép chế tạo, nhựa, cao su, composit, gốm phục vụ công nghiệp công nghệ cao, hóa chất cơ bản, hóa chất chuyên dụng trong công nghiệp công nghệ sinh học, vật liệu điện tử…

Từ những yêu cầu của ngành CNPT đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 cho thấy, nhu cầu về lao động có trình độ và kỹ năng cao là một yêu cầu tất yếu để đáp ứng những phát triển quan trọng của ngành CNPT.

Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp phụ trợ

Trong bối cảnh đó, các DN ngoài việc phải đầu tư nhiều hơn cho dây chuyền công nghệ hỗ trợ mới, hiện đại để đáp ứng yêu cầu sản xuất thì việc trang bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho quá trình này ngày càng trở nên bức thiết. Theo đó, công tác phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp hỗ trợ thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu thị trường nhân lực trong tương lại gần và xa hơn. Đây là nội dung cần đặc biệt quan tâm, bởi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động rất lớn tới cơ cấu nền kinh tế, khả năng suy giảm, thậm chí mất đi của nhiều ngành, nghề cũng như xuất hiện mới của những ngành trong tương lai, điều này sẽ rất tới  những thay đổi rất lớn trong cơ cấu việc làm.

Hai là, để giải quyết bài toán nhân lực, từ đó thúc đẩy sự phát triển của ngành CNPT, trước hết Nhà nước cần làm rõ lĩnh vực công nghiệp mục tiêu và chiến lược phát triển công nghiệp; Chú trọng đến lĩnh vực công nghiệp quan trọng nhất và tiến hành đào tạo nguồn nhân lực cả về công nghệ sản xuất và quản lý kinh doanh; Ban hành hệ thống văn bản về kỹ năng nghề nghiệp theo chuẩn chung quốc tế, chú trọng quy trình, phương thức đào tạo, hệ thống chứng chỉ để sẵn sàng thực hiện trao đổi lao động khu vực và quốc tế; Ban hành kế hoạch đào tạo nguồn lực cho các ngành công nghiệp mới đáp ứng nhu cầu của các ngành đã chọn và  luôn ưu tiên, có những chế độ đãi ngộ để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngành CNPT.

Nhà nước hỗ trợ kinh phí từ nguồn vốn ngân sách hoặc vốn hỗ trợ trợ phát triển chính thức cho các khoa chuyên ngành của trường đại học và cao đẳng để đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành CNHT công nghệ cao tại Việt Nam.

Đồng thời, xây dựng và nâng cao hiệu quả, mức độ lan tỏa của các chương trình đào tạo phối hợp giữa công ty có vốn đầu tư nước ngoài với các nhà cung cấp. Các chương trình này nhằm mục tiêu chuyển giao kỹ thuật cho các công ty trong nước và cũng là cơ hội để hai bên hiểu biết, học hỏi lẫn nhau. Đặc biệt, cần cải cách hệ thống giáo dục, dạy nghề ở các trường phổ thông, các trường cao đẳng công nghiệp và các trường đại học theo hướng giảm nhẹ các học phần nặng tính lý thuyết, ý thức hệ, cập nhật, kết nối với nhu cầu, các tiêu chuẩn thực tế của các DN.

Ba là, hoàn thiện hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động để không chỉ thiết lập hệ thống tiêu chuẩn kỹ  năng làm cơ sở phát triển kỹ năng kỹ thuật phù hợp với thế giới công việc thông qua một hệ thống được kết nối tốt hơn, mà còn nhằm công nhận trình độ kỹ năng cho người lao động có kỹ năng nghề đã tích lũy trong quá trình học tập và sản xuất, kinh doanh  mà chưa được công nhận hoặc sử dụng.

Bốn là, xây dựng hệ thống chính sách thúc đẩy các DN trong ngành CNPT chủ động tham gia tích cực vào quá trình hoạt động dạy nghề, thiết lập mối liên hệ chặt chẽ, phù hợp giữa các chương trình đào tạo nghề với các yêu cầu kỹ năng mà thị trường lao động đang cần, tạo cho người lao động sau khi được đào tạo trở thành những người “sẵn sàng làm việc”, tức là sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của DN.

Năm là, chủ động hội nhập quốc tế, tăng cường trao đổi học tập kinh nghiệm về hoạt động dạy nghề, sử dụng chương trình dạy nghề, tiêu chuẩn kỹ năng nghề của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới; khuyến khích hợp tác, đâu tư nước ngoài vào dạy nghề ở Việt Nam; hài hòa các tiêu chuẩn kỹ năng của các nước trong khu vực để tiến tới xây dựng cơ chế công nhận lẫn nhau về trình độ kỹ năng nghề của người lao động.

Tài liệu tham khảo:

  1. Phát triển ngành Công nghiệp phụ trợ - thực trạng, định hướng và giải pháp, http://www.vnep.org.vn, 26/10/2007;
  2. Lê Đăng Minh (2007), Trung Quốc gia nhập WTO: Tác động và những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh một số ngành công nghiệp Việt Nam, luận án Tiến sỹ kinh tế;
  3. Tài liệu Hội nghị khoa học “Đào tại nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0”, năm 2018.
  4. Các website: moit.gov.vn, tapchitaichinh.vn, laodongxaxhoi.net…