Kho bạc Nhà nước thực hiện cải cách quản lý ngân quỹ nhà nước hướng tới mục tiêu: An toàn và hiệu quả

lưu hoàng

(Tài chính) Thực hiện chiến lược phát triển ngành Tài chính, chiến lược phát triển Kho bạc Nhà nước (KBNN) đến năm 2020, trong những năm qua KBNN đã góp phần cùng với ngành Tài chính triển khai đồng bộ nhiều đề án, cơ chế chính sách để xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính - tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế.

Ngân quỹ nhà nước phải được quản lý tập trung, thống nhất trong toàn hệ thống. Nguồn: internet
Ngân quỹ nhà nước phải được quản lý tập trung, thống nhất trong toàn hệ thống. Nguồn: internet

Trong tiến trình cải cách để thực hiện các mục tiêu của Chiến lược và hội nhập kinh tế quốc tế đó, KBNN đã xây dựng và triển khai nhiều đề án, dự án cải cách, hiện đại hóa về lĩnh vực kho bạc để góp phần thực hiện chương trình cải cách hành chính của Chính phủ, chương trình cải cách tài chính công và Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020 như: Triển khai thành công dự án TABMIS trên toàn quốc (cuối năm 2012, hệ thống KBNN đã hoàn tất công tác triển khai TABMIS trên toàn hệ thống); thực hiện dự án Hiện đại hóa thu ngân sách nhà nước (NSNN) và tổ chức phối hợp thu với các ngân hàng thương mại; tham gia thanh toán điện tử liên ngân hàng (với Ngân hàng Nhà nước) và thanh toán song phương điện tử (với các ngân hàng thương mại mà KBNN có tài khoản)…

Đặc biệt trong những năm qua, KBNN đã tập trung nghiên cứu xây dựng và triển khai Đề án cải cách quản lý ngân quỹ, hướng tới mục tiêu “Đổi mới công tác quản lý ngân quỹ trên cơ sở hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và các công cụ quản lý, đảm bảo an toàn và hiệu quả; gắn kết quản lý ngân quỹ với quản lý nợ”. Mục tiêu trên cũng đã được cụ thể hóa thành 2 yêu cầu cơ bản là: (1) Ngân quỹ nhà nước phải được quản lý tập trung, thống nhất trong toàn hệ thống để đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu thanh toán chi trả của NSNN và các đơn vị giao dịch với KBNN. Đây cũng là yêu cầu đã được các đơn vị KBNN triển khai thực hiện tốt trong những năm vừa qua; (2) Ngân quỹ nhà nước phải được quản lý an toàn và hiệu quả. Đây là một yêu cầu cải cách mới được đặt ra theo định hướng Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020.

Để thực hiện các mục tiêu và yêu cầu nói trên, năm 2014 và các năm tiếp theo, hệ thống KBNN sẽ tiếp tục đẩy mạnh các chương trình cải cách, hiện đại hóa, coi đây là một trong những nội dung quan trọng, là động lực và là giải pháp để hoàn thành nhiệm vụ trước mắt cũng như định hướng cải cách lâu dài của toàn hệ thống, nhằm xây dựng hệ thống KBNN hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển ổn định, vững chắc trên cơ sở cải cách thể chế chính sách, hoàn thiện tổ chức bộ máy gắn với hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực để thực hiện tốt các chức năng:

Quản lý quỹ NSNN và các quỹ tài chính nhà nước; quản lý ngân quỹ và huy động vốn cho đầu tư phát triển; Tổng kế toán nhà nước nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả và tính công khai, minh bạch trong quản lý các nguồn lực tài chính của Nhà nước. Đến năm 2020, các hoạt động KBNN được thực hiện trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại và hình thành kho bạc điện tử. Trong đó, riêng đối với chương trình cải cách quản lý ngân quỹ sẽ tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, xây dựng và ban hành đồng bộ khuôn khổ pháp l để phục vụ cho hoạt động cải cách ngân quỹ; trong đó, trọng tâm là việc xây dựng và trình Bộ, trình Chính phủ ban hành Nghị định quản lý ngân quỹ ngay sau khi Luật NSNN (sửa đổi) được Quốc hội thông qua (dự kiến vào cuối năm 2014); xây dựng và trình Bộ Tài chính ban hành đồng bộ các Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định Quản lý ngân quỹ nhà nước (như Thông tư hướng dẫn chung về quản lý ngân quỹ; Thông tư hướng dẫn việc quản lý, sử dụng và vận hành hệ thống tài khoản thanh toán tập trung – TSA; Thông tư hướng dẫn quy trình dự báo luồng tiền,…) theo đúng nội dung, lộ trình kế hoạch đã được  lãnh đạo KBNN phê duyệt, đảm bảo khuôn khổ pháp lý phải đi trước một bước để có đủ thời gian cũng như các điều kiện cần thiết khác cho việc triển khai thực hiện các bước cải cách tiếp theo.

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện các công cụ phục vụ cho cải cách quản lý ngân quỹ nhà nước, cụ thể: Hiện đại hóa hệ thống thanh toán của KBNN, mà trọng tâm là triển khai mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng (với Ngân hàng Nhà nước); triển khai thí điểm và mở rộng đối với 2 hệ thống ngân hàng thương mại còn lại là Vietcombank và Agribank (ngoài 2 hệ thống BIDV và Vietinbank đã đượcKBNN đã triển khai và hoàn thành trong năm 2013), phấn đấu đến giữa năm 2014, hoàn thành công tác triển khai hiện đại hóa hệ thống thanh toán trên toàn hệ thống KBNN; đồng thời, hoàn thiện quy trình thanh toán điện tử trong nội bộ hệ thống KBNN (thanh toán LKB) trong điều kiện triển khai và vận hành hệ thống TABMIS.

Bên cạnh đó, cũng cần quan tâm và tăng cường hơn nữa công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống KBNN thông qua việc triển khai có hiệu quả các quy định của Bộ Tài chính và hướng dẫn của KBNN về quản lý thanh toán bằng tiền mặt qua KBNN (như Thông tư số 85/2011/TTBTC; Thông tư số 164/2011/TT-BTC,…).

Qua đó, hiện đại hóa và điện tử hóa hệ thống thanh toán, đáp ứng tốt yêu cầu thanh toán, chi trả của ngân sách nhà nước cũng như các đơn vị giao dịch với KBNN và hình thành tài khoản thanh toán tập trung của KBNN (TSA); đồng thời, từng bước góp phần tập trung ngân quỹ về trung ương, nâng cao khả năng thanh khoản của toàn hệ thống KBNN cũng như hỗ trợ và tạo điều kiện công tác cải cách quản lý ngân quỹ trong thời gian tới.

Xây dựng hệ thống dự báo tình hình thu, chi và tồn ngân quỹ hoàn chỉnh và đồng bộ, dựa trên nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại cũng như khai thác có hiệu quả cơ sở dữ liệu của các hệ thống thông tin đã có như: Hệ thống thông tin quản lý ngân sách – kho bạc (TABMIS); hệ thống quản lý nợ - DMFAS (bao gồm cả nợ trong và ngoài nước); dự án Hiện đại hóa thu NSNN (TCS); hệ thống thanh toán tập trung với ngân hàng (thanh toán điện tử liên ngân hàng; thanh toán song phương điện tử),… Từ đó, làm cơ sở cho việc đề xuất và triển khai các phương án điều hành ngân quỹ nhà nước một cách chủ động và linh hoạt, đảm bảo việc quản lý ngân quỹ nhà nước vừa an toàn, vừa hiệu quả.

Xây dựng và triển khai quy trình nghiệp vụ về quản lý rủi ro đối với hoạt động quản lý ngân quỹ nhà nước. Đây cũng là một vấn đề rất quan trọng đối với công tác quản lý ngân quỹ nhà nước. Điều này cũng đòi hỏi cần phải xác định rõ các loại rủi ro có thể xảy ra trong quản lý ngân quỹ (rủi ro về thanh khoản; rủi ro về tín dụng; rủi ro về thị trường; rủi ro về hoạt động,…). Trên cơ sở đó, xây dựng các quy trình nghiệp vụ và các biện pháp kỹ thuật cần thiết để kiểm soát và ngăn ngừa các rủi ro có thể xảy ra; trong đó, cần tập trung vào quản lý rủi ro thanh khoản thông qua việc xác định và duy trì các tỷ lệ đảm bảo an toàn thanh khoản (như tỷ lệ đảm bảo khả năng chi trả, tỷ lệ tối đa sử dụng ngân quỹ tạm thời nhàn rỗi để đầu tư dài hạn,…); rủi ro tín dụng (đối với các hoạt động đầu tư ngân quỹ nhà nước dự kiến sẽ được thực hiện trong tương lai).

Thứ ba, xây dựng và hình thành đơn vị quản lý ngân quỹ theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và phù hợp với thông lệ chung của quốc tế. Cải cách quản lý ngân quỹ cũng đòi hỏi cần thiết hình thành một đơn vị chuyên trách về quản lý ngân quỹ; đơn vị này sẽ bao gồm một số bộ phận như:

Bộ phận phân tích dự báo chịu trách nhiệm: Tổ chức theo dõi diễn biến tình hình thị trường tài chính - tiền tệ để phân tích các tác động có ảnh hưởng đến luồng ngân quỹ nhà nước vào/ra KBNN; theo dõi, phân tích, đánh giá tác động của các cơ chế chính sách có ảnh hưởng đến sự biến động về thu, chi ngân quỹ nhà nước; tổ chức dự báo luồng tiền,…

Bộ phận thực hiện giao dịch ngân quỹ chịu trách nhiệm: Xây dựng và thực hiện các phương án đầu tư/đi vay bù đắp thiếu hụt tạm thời ngân quỹ nhà nước khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt,…

Bộ phận hậu kiểm chịu trách nhiệm: Tổ chức theo dõi, kế toán các giao dịch về quản lý ngân quỹ nhà nước; kiểm soát việc tuân thủ các hạn mức quy định; các quy trình nghiệp vụ về quản lý rủi ro trong quản lý ngân quỹ nhà nước,… Qua đó, triển khai và thực hiện một cách đầy đủ và đồng bộ chức năng quản lý ngân quỹ nhà nước theo nội dung, lộ trình đã được quy định.

Thứ tư, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, nhất là những cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý ngân quỹ, đảm bảo đủ số lượng và chất lượng, có đầy đủ năng lực và phẩm chất tốt và đặc biệt là phải am hiểu và vận dụng một cách thành thạo các kỹ năng nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ (các giao dịch về đầu tư hoặc đi vay bù đắp thiếu hụt tạm thời ngân quỹ nhà nước; cách thức kiểm soát đối với các loại rủi ro trong quản lý ngân quỹ nhà nước…).

Thứ năm, xây dựng và phát triển hạ tầng công nghệ thông tin để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu cải cách quản lý ngân quỹ, đặc biệt các hoạt động để hỗ trợ việc hiện đại hóa thanh toán và xây dựng tài khoản thanh toán tập trung; dự báo luồng tiền, quản lý và kiểm soát các rủi ro đối với hoạt động quản lý ngân quỹ…

Theo dự báo, năm 2014 tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn gặp nhiều khó khăn; sản xuất kinh doanh vẫn chưa thực sự ổn định, nên khả năng nguồn thu của ngân sách nhà nước còn bị hạn chế, trong khi nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước là rất lớn, đặc biệt là các nhu cầu chi đầu tư xây dựng cơ bản,… Vì vậy, nhiệm vụ cân đối thu, chi NSNN đối với ngành Tài chính theo dự kiến cũng rất nặng nề. Điều này cũng sẽ tạo một sức ép rất lớn đối với việc cân đối và đảm bảo khả năng thanh khoản của toàn hệ thống KBNN.

Để góp phần cùng với ngành Tài chính hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, đảm bảo cân đối thu, chi NSNN một cách vững chắc cũng như đảm bảo an toàn thanh toán của toàn hệ thống KBNN; đồng thời, tạo tiền đề để hỗ trợ cho các hoạt động cải cách quản lý ngân quỹ nhà nước theo các nội dung nêu trên, trong thời gian tới, KBNN cần tập trung triển khai quyết liệt một số giải pháp, cụ thể như sau:

Tranh thủ sự chỉ đạo của Bộ Tài chính và tăng cường phối hợp với các cấp, các đơn vị có liên quan để thực hiện tốt các định hướng, nội dung về cải cách quản lý ngân quỹ nhà nước; trong đó, chú trọng đến việc xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành đầy đủ và đồng bộ khuôn khổ pháp lý (Nghị định quản lý ngân quỹ nhà nước; các Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định của Bộ Tài chính; các quy trình nghiệp vụ hướng dẫn trong nội bộ hệ thống KBNN) phục vụ cho hoạt động cải cách quản lý ngân quỹ nhà nước trong thời gian tới.

Đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với hiện đại hóa công nghệ quản lý, đặc biệt là công nghệ thông tin và phát triển nguồn nhân lực để nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của toàn hệ thống; trong đó, triển khai và vận hành tốt hệ thống TABMIS để làm tiền đề và cơ sở cho các bước cải cách đột phá hiện đại hóa hệ thống KBNN nói chung và cải cách quản lý ngân quỹ nhà nước nói riêng.

Xây dựng khối đoàn kết trong toàn hệ thống KBNN, trên dưới một lòng với ý chí quyết tâm cao thực hiện cải cách, hiện đại hóa KBNN phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam; đồng thời, khắc phục tư tưởng níu kéo, duy trì tư duy và cách làm cũ.

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin để các cấp, các ngành, đơn vị có liên quan và mọi cán bộ công chức KBNN nhận thức đúng đắn ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của quá trình cải cách, hiện đại hóa KBNN nói chung và cải cách quản lý ngân quỹ nhà nước nói riêng. Việc triển khai hiện đại hóa KBNN cũng như cải cách quản lý ngân quỹ nhà nước chỉ có thể thành công khi có sự quan tâm vào cuộc của tất cả các đơn vị, cá nhân, đặc biệt là thủ trưởng các đơn vị KBNN với cam kết chấp nhận các thách thức trong đổi mới cũng như ủng hộ các xu hướng cải cách, hiện đại hóa để xây dựng hệ thống KBNN ngày càng hoạt động ổn định, vững chắc.

Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước, các tổ chức quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về nguồn lực tài chính và công nghệ quản lý trong lĩnh vực quản lý ngân quỹ nhà nước nói riêng và lĩnh vực KBNN nói chung; trên cơ sở đó, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm quản lý ngân quỹ tiên tiến, đảm bảo phù hợp với hoàn cảnh thực tế của Việt Nam.

Bài đăng trên Tạp chí Quản lý Ngân quỹ Quốc gia