Trao đổi về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

ThS. Trịnh Huy Hồng - Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Là một đất nước đang phát triển, đang đi lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một mô hình tương thích với đặc điểm lịch sử phát triển của Dân tộc và phù hợp với bối cảnh của thời đại để Việt Nam có thể phát triển bền vững hơn. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế thị trường đầy đủ, toàn diện, hướng tới mục tiêu cốt lõi “dân giàu, nước mạnh”, một xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” được vận hành theo cơ chế thị trường với sự điều tiết quản lý của Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Ảnh minh họa. Nguồn: Intenret
Ảnh minh họa. Nguồn: Intenret

Quan điểm xuyên suốt về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Quan điểm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) không phải là một mô hình của sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan của hai yếu tố “KTTT” và “CNXH”, mà là sự vận dụng đầy sáng tạo và linh hoạt xu thế vận động, phát triển khách quan của KTTT trong thời đại ngày nay.

Cần nhận thức rằng, KTTT là một giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa, nghĩa là nó không còn ở dạng nền sản xuất hàng hóa sơ khai, với sự xuất hiện mang tính phổ biến của sản xuất tự cung tự cấp mà ở đây, các hoạt động kinh tế, các chủ thể kinh tế đã ngày càng đa dạng hơn. Hành vi mua bán, trao đổi diễn ra thường xuyên, liên tục với quy mô ngày càng được mở rộng trong đời sống xã hội loài người.

Đặc biệt, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là hệ thống tự điều tiết các quan hệ kinh tế và cân đối kinh tế thông qua các quy luật khách quan của thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Thông qua các quy luật này, thị trường tự điều tiết giá cả hàng hóa, tự điều tiết sự phân bổ nguồn lực đầu tư, tự điều tiết sản lượng sản xuất cũng như là hệ thống phân phối sản phẩm… Và hệ thống tự điều tiết đó được nhà Kinh tế học người Anh, Adam Smith – người được coi là cha đẻ của kinh tế chính trị học hiện đại gọi là “bàn tay vô hình”.

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật phát triển của thời đại, cộng với sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển thực tiễn KTTT của các quốc gia trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước xây dựng, hoàn thiện và phát triển tư duy lý luận về phát triển nền KTTT định hướng XHCN, nhằm sử dụng KTTT để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên CNXH.

Chủ trương về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 9/1979), lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra quan điểm thuận lợi cho “sản xuất bung ra", phát triển kinh tế hàng hoá – “lưu thông tự do” hàng hoá. Từ những quan điểm, chủ trương cơ bản này, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, thể chế mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá. Hội nghị Trung ương 8 (tháng 6/1985), khóa V có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc cải cách kinh tế đất nước và đây được coi là bước đột phá lần thứ hai trong quá trình tìm tòi, đổi mới của Đảng. Hội nghị này tập trung bàn và quyết định việc cải cách một bước giá cả, tiền lương, tài chính và tiền tệ để bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh XHCN, giá cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thoả đáng. Thực chất, các chủ trương này chính là thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền sản xuất hàng hoá và những quy luật khách quan trong nền kinh tế quốc dân.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế thị trường đầy đủ, toàn diện, hướng tới mục tiêu cốt lõi “dân giàu, nước mạnh”, một xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” được vận hành theo cơ chế thị trường với sự điều tiết quản lý của Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.

Từ đầu năm 1986, Hội nghị của Bộ Chính trị khoá V (tháng 8/1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng. Hội nghị đã nhận thức đúng đắn nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần chính là đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta và thực hiện đổi mới tư duy kế hoạch hoá theo nguyên tắc vừa phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế XHCN, cùng với đó sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá - tiền tệ; tăng tính tự chủ cho các đơn vị kinh tế.

Đại hội lần thứ VI (tháng 12/1986) của Đảng đã chính thức đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam, với các tư tưởng chủ đạo như: xây dựng một thị trường thống nhất, với nhiều thành phần kinh tế tham gia; thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường. Cùng với đó, Nhà nước bỏ quyền định và giữ giá, thay vào đó sẽ điều tiết giá cả bằng các biện pháp, công cụ kinh tế, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh trong nhận thức lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta.

Tại Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3/1989), khóa VI, kinh tế hàng hoá không những được thừa nhận mà còn nâng lên thành quan điểm phải phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH. Đến Đại hội VII (tháng 6/1991) của Đảng, chủ trương “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” tiếp tục được khẳng định rõ ràng.

Tại Đại hội lần thứ VIII (tháng 6/1996), nhận thức của Đảng ta về kinh tế hàng hoá tiến thêm một bước rất quan trọng khi đã đưa ra kết luận sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng.

Tuy nhiên, khái niệm "KTTT" vẫn chưa được xác lập chỉ đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001), khái niệm “KTTT định hướng XHCN” mới chính thức được đề cập trong các văn bản của Đại hội. Đại hội khẳng định: Đường lối chiến lược nhất quán của Đảng ta trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam chính là phát triển KTTT định hướng XHCN và đó cũng chính là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kì này. Khái niệm “KTTT định hướng XHCN” chính là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn và đánh dấu bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.

KTTT định hướng XHCN được hiểu là mô hình kinh tế xuyên suốt trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Như vậy, KTTT định hướng XHCN là một nền KTTT đầy đủ, toàn diện, hướng tới mục tiêu cốt lõi “dân giàu, nước mạnh”, một xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” được vận hành theo cơ chế thị trường với sự điều tiết quản lý của Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là mô hình kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH của Việt Nam.

Cơ sở phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam

KTTT định hướng XHCN là một mô hình đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Nó không phải là sự lựa chọn mang tính chất chủ quan, duy ý chí mà được xuất phát từ những cơ sở khách quan nhất định cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.

Về cơ sở lý luận

Việt Nam có xuất phát điểm từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh liên miên cộng với việc thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong một thời gian khá dài. Chính vì thế trình độ của lực lượng sản xuất của Việt Nam tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau. Điều này nảy sinh hai vấn đề:

Một là, thực trạng đó chưa thể phù hợp với mô hình kinh tế tập trung, dựa trên chế độ công hữu hóa tương ứng với một lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao. Mặt khác, trình độ của lực lượng sản xuất ở nhiều cấp độ thì quan hệ sản xuất cũng phải phong phú, đa dạng để tương thích với trình độ đó. Việc duy trì đa dạng quan hệ sản xuất, đa dạng loại hình sở hữu với nhiều thành phần kinh tế khác nhau đã tăng cường sự độc lập, tách biệt tương đối giữa các chủ thể kinh tế - một trong những nguyên nhân hình thành nên nền kinh tế hàng hoá và KTTT.

Từ những phân tích trên cho thấy, KTTT là phương án tối ưu cho bài toán lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Khi Việt Nam xác lập con đường quá độ đi lên CNXH với đặc trưng về mặt kinh tế là sở hữu công giữ vai trò chủ đạo, nên không thể nào phát triển KTTT như ở các nước tư bản phát triển lấy chế độ sở hữu tư nhân làm nền tảng mà phải theo định hướng XHCN, mới không kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất và đảm bảo mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”.

Về góc độ thực tiễn

Việt Nam đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH. Quá trình này sẽ trở nên khó khăn, lâu dài và phức tạp khi Việt Nam tiến hành đơn độc một mình. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải hội nhập sâu rộng, tăng cường thiết lập quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Để có thể giúp quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra thuận lợi, bản thân Việt Nam phải tạo ra những điểm tương đồng với bạn bè các nước để có thể xích lại gần nhau hơn. Nền KTTT hiện đại đang được phát triển tại các nước tư bản chính là cơ hội để chúng ta hoà nhập cùng thế giới.

Một cơ sở quan trọng nữa quyết định đến việc mô hình KTTT định hướng XHCN trở thành sự lựa chọn của thời đại, mang tính tất yếu là do điều kiện hoàn cảnh lịch sử quy định. Nhìn vào thực tiễn lịch sử, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam giai đoạn thế kỉ XIX – XX dưới sự lãnh đạo của các giai tầng trí thức phong kiến, tư sản và tiểu tư sản về cơ bản đều thất bại, không đạt được kết quả như kì vọng.

Chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (năm 1930) đã lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thống nhất đất nước, lãnh thổ đất nước liền một dải. Tất yếu việc lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cần phải đặt dưới dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động toàn quốc. Do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo nên tất yếu con đường cách mạng của chúng ta ở hiện tại và cho tương lai đó chính là độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH.

Như vậy, có thể thấy, quan điểm xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN là sự tiếp thu có chọn lọc và phát huy vai trò tích cực của KTTT cũng như những thành tựu của văn minh nhân loại; đồng thời hạn chế mặt tiêu cực của nó. Đây là sự lựa chọn mang tính tất yếu khách quan về con đường và mô hình phát triển nền kinh tế trên cơ sở quán triệt lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm bắt đúng quy luật cốt lõi và vận dụng sáng tạo trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

Sự khác biệt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và các nước tư bản phát triển

Quan điểm phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam được hình thành dựa trên cơ sở nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của KTTT hiện đại, cùng với việc nhận thức tính quy luật của sự phát triển và đúc rút từ kinh nghiệm phát triển KTTT của các quốc gia khác. Nên đặc trưng của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam vừa có những điểm tương đồng, vừa có những nội dung khác biệt cùng song hành tồn tại.

Một là, về mục đích. Bất kỳ một mô hình KTTT nào được xây dựng đều nhằm mục đích cơ bản là để khai thác một cách tối đa nguồn lực kinh tế-xã hội, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ cho phát triển của quốc gia đó. Tuy nhiên, ở nền KTTT định hướng XHCN với nền KTTT tại các nước tư bản vẫn có những điểm khác biệt nhất định. Theo đó, nền KTTT định hướng XHCN hướng tới mục đích xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, lợi ích của Nhân dân là trên hết, hướng tới xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nghĩa là bảo đảm cho mọi người đều được thừa hưởng thành quả của sự phát triển. Trong thực tiễn phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới việc đảm bảo lợi ích cho đại bộ phận người dân lao động, ví dụ như khi đại dịch COVID-19, bùng phát toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đều quán triệt và tích cực thực hiện quan điểm “Không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người” để hỗ trợ người dân. Ngân sách nhà nước đã chi trả hàng nghìn tỷ đồng cho cuộc chiến phòng, chống đại dịch COVID-19.

Hai là, về quan hệ sản xuất. Cả 2 mô hình KTTT đều có nhiều hình thức sở hữu khác nhau như công hữu, tư hữu, hỗn hợp… nhưng sự khác biệt cơ bản đó là hình thức sở hữu nào nắm vai trò chủ đạo. Ở nền KTTT định hướng XHCN, thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo khi nắm giữ nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quan trọng như: khai thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên khoáng sản, an ninh quốc phòng, tiền tệ, phát thanh truyền hình… Còn mô hình KTTT tại các nước tư bản chủ nghĩa thì thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo lại là kinh tế tư nhân. Ở Mỹ, Anh, Hàn Quốc, lĩnh vực sản xuất vũ khí, các trang thiết bị chiến đấu cũng đều do các công ty quốc phòng của tư nhân sản xuất như: Northrop Grumman, Raytheon… Nhiều lĩnh vực khác như đất đai, tài nguyên giàu mỏ, truyền thông đều do các nhà tư bản tư nhân kiểm soát và khống chế.

Ba là, về quan hệ tổ chức quản lý. Nền KTTT ở các nước tư bản chủ nghĩa và nền KTTT định hướng XHCN đều dựa trên cơ chế thị trường tự điều tiết, kết hợp với sự điều tiết của Nhà nước. Sự khác biệt nổi bật nhất đó chính là nằm ở bàn tay hữu hình điều tiết, quản lý nền kinh tế. Một bên là Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Còn ở các nước tư bản chủ nghĩa, Nhà nước do các Đảng phải tham gia tranh cử và nắm quyền. Chẳng hạn, ở Mỹ có Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân chủ; ở Anh có Đảng Bảo thủ và Đảng Lao động… Chính vì vậy, dẫn tới kết quả sự điều tiết của Nhà nước tư sản không mang tính liên tục, xuyên suốt trong thời gian dài, luôn có khuynh hướng nhiệm kỳ, thay đổi liên tục, đôi khi có thể thay đổi ngược hẳn với trước đó.

Bốn là, về quan hệ phân phối. Ở cả hai mô hình KTTT đều duy trì đa dạng các hình thức phân phối, như phân phối theo lao động, phân phối theo vốn góp (tư bản) và phân phối theo phúc lợi xã hội. Mỗi một hình thức phân phối dựa trên một hệ tiêu chí khác nhau để làm căn cứ phân bổ. Đây là ba hình thức phân phối mà cả hai nền KTTT đều có. Sự khác biệt là ở chỗ trong nền KTTT định hướng XHCN, phân phối theo lao động được coi là chủ đạo. Điều này đúng với nguyên lý chung đó là lao động tạo nên giá trị. Vì thế, phân phối của cải theo lao động mới là chân lý, là khách quan. Còn nền KTTT tư bản chủ nghĩa thì phân phối theo vốn góp là chủ đạo. Điều này tất yếu tạo ra một sự bất bình đẳng khi việc tiếp cận các nguồn lực của con người trong nền kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân là không giống nhau, ai có điều kiện kinh tế vượt trội sẽ có lợi thế hơn hẳn trong việc chiếm giữ và thụ hưởng những lợi ích khác.

Như vậy, KTTT định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế, một mô hình kinh tế ở một xã hội đang có nhiều chuyển biến tích cực từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới đó là xã hội XHCN. Đây là nền kinh tế mang đầy đủ các đặc điểm chung của KTTT nhưng bên cạnh đó nó có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của thị trường, đảm bảo tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân.

Việc xác định mô hình KTTT định hướng XHCN không hề đơn giản. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật khách quan dựa trên điều kiện lịch sử, hoàn cảnh cụ thể của thời đại và của Đất nước. KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế có nhiều điểm đặc biệt, bao hàm cả những nguyên tắc và quy luật của hệ thống KTTT nói chung và vừa bảo đảm tính định hướng XHCN. Việc tận dụng những điểm tích cực của KTTT kết hợp với việc nâng cao năng lực quản lý điều tiết của Nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ giúp tận dụng cơ hội của ngoại lực, đẩy mạnh nội lực, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt đi nhanh hơn trên con đường quá độ tới CNXH.

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 37, trang 988;
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 47, trang 380;
  3. Nguyễn Phú Trọng (2007), Tạp chí Cộng sản điện tử. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển, 2007, www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/2081/kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia---quan-niem-va-giai-phap-phat-trien.aspx.
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2023