Giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế bền vững trong năm 2022-2023


Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển quan trọng, có tính quyết định với kỳ vọng phục hồi và phát triển kinh tế trong năm 2022 và 2023, tạo sức bật mạnh mẽ cho cả giai đoạn 2021-2025. Dù đối mặt với không ít khó khăn, thách thức nhưng trong ngắn hạn, Việt Nam có nhiều triển vọng lạc quan để tăng trưởng kinh tế cao so với mức trước đại dịch COVID-19. Vì vậy, nhận diện bối cảnh, thách thức sẽ giúp Việt Nam tận dụng được cơ hội để nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế. Trên cơ sở những phân tích, nhận định đó, bài viết đề xuất một số kiến nghị chính sách nhằm phục hồi và phát triển bền vững trong giai đoạn tới.

Bối cảnh quốc tế

Trong năm 2022 và 2023, tăng trưởng kinh tế toàn cầu tiếp tục được dự báo sẽ suy giảm, trong khi lạm phát tiếp tục ở mức cao. Bên cạnh những bất ổn gây ra bởi đại dịch COVID và sự đứt gãy chuỗi cung ứng, thì cuộc xung đột Nga - Ukraine được coi là rủi ro chính, tạo ra cú sốc kinh tế nghiêm trọng, làm dự báo tăng trưởng toàn cầu trong năm 2022 giảm so với các dự báo đưa ra trước đó (Bảng 1).

Giải pháp phục hồi và phát triển  kinh tế bền vững trong năm 2022-2023 - Ảnh 1

Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), sự đứt gãy nguồn cung nhiều loại hàng hóa quan trọng như nông sản, nhiên liệu, kim loại từ Nga và Ukraine sẽ khiến giá cả liên tục tăng mạnh, đe dọa kinh tế toàn cầu. Trong năm 2022, tỷ lệ lạm phát tại các nền kinh tế phát triển sẽ ở mức 5,7%, trong khi các nền kinh tế đang phát triển mới nổi là 8,7%, cao hơn đáng kể so với dự báo đưa ra trước đó. Các quốc gia châu Âu và các thị trường mới nổi, được coi là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương hơn cả. Lạm phát cao đã buộc ngân hàng trung ương các nước phải nâng lãi suất dẫn tới làm chậm tăng trưởng kinh tế và đây là một trở ngại lớn đối với sự phục hồi của kinh tế toàn cầu sau đại dịch COVID-19.

Trong khi đó, Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu (Global Economic Prospects) ngày 7/6/2022 của Ngân hàng Thế giới cho rằng, nền kinh tế thế giới sẽ chỉ tăng trưởng 2,9% trong năm nay, sụt tốc mạnh so với mức tăng 5,7% đạt được năm 2021... Đồng thời, tăng trưởng toàn cầu sẽ duy trì quanh ngưỡng dự báo trên cho tới hết năm 2023 và 2024, trong khi lạm phát sẽ tiếp tục cao hơn mục tiêu ở nhiều nền kinh tế.

Cuộc chiến tranh Nga-Ukraine kéo theo sự leo thang của giá hàng hoá cơ bản càng làm trầm trọng thêm những thiệt hại mà đại dịch COVID-19 gây ra cho nền kinh tế toàn cầu. Ngân hàng Thế giới cho rằng kinh tế thế giới đang bước vào “một thời kỳ kéo dài với tăng trưởng kém và lạm phát duy trì ở mức cao”. Môi trường lạm phát cao kết hợp tăng trưởng yếu hiện nay là sự tái hiện những gì đã xảy ra cách đây 5 thập kỷ.

Trong giai đoạn đó, lạm phát nóng dẫn tới những đợt tăng lãi suất mạnh mẽ ở các nền kinh tế phát triển, kéo theo một loạt cuộc khủng hoảng tài chính tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Để giảm bớt rủi ro lịch sử lặp lại, Ngân hàng Thế giới kêu gọi các nhà hoạch định chính sách phối hợp hỗ trợ Ukraine, chống lại sự leo thang của giá dầu và giá lương thực-thực phẩm, đồng thời đẩy mạnh việc giảm nợ cho các nền kinh tế đang phát triển...

Động lực tăng trưởng từ Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam

Tại Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình, Chính phủ đặt mục tiêu phục hồi, phát triển nhanh hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, ưu tiên một số ngành, lĩnh vực quan trọng, phấn đấu đạt mục tiêu của giai đoạn 2021-2025: tăng trưởng GDP bình quân 6,5 - 7%/năm, chỉ tiêu nợ công dưới mức Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 23/2021/QH15, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn trong trung hạn và dài hạn. Bên cạnh đó, tiết giảm chi phí, hỗ trợ dòng tiền, bảo đảm tính chủ động, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và người dân...

Từ đầu năm đến nay, các tổ chức tài chính quốc tế dự báo lạc quan về tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 và 2023. Cụ thể, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi ở mức 6,5% năm 2022 và đạt 6,7% năm 2023; Ngân hàng Thế giới dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ đạt 5,3% năm 2022, sau đó sẽ ổn định trở lại quanh mức 6,5%. Trong khi đó, dù hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2022 xuống mức 3,6%, nhưng IMF lại cho rằng, với tiến trình phục hồi kinh tế sẽ mạnh lên từ việc thực thi Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), từ đó dự báo GDP Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 6% trong năm 2022 và 7,2% trong năm 2023 (Hình 1).

Giải pháp phục hồi và phát triển  kinh tế bền vững trong năm 2022-2023 - Ảnh 2

Dự báo lạc quan về triển vọng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam từ các tổ chức tài chính quốc tế phần lớn bắt nguồn từ quyết tâm của Đảng, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam trong việc triển khai Chương trình hỗ trợ phục hồi nền kinh tế sau khi đã kiểm soát hiệu quả đại dịch COVID-19. Theo đó, Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế KT-XH trong năm 2022 và 2023 được quyết liệt tổ chức triển khai thông qua các văn bản như: Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH; Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội cũng như các văn bản chỉ đạo, đôn đốc của Thủ tướng Chính phủ. Chương trình phục hồi và phát triển KT–XH đảm bảo thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ phù hợp với khả năng huy động nguồn lực và khả năng hấp thụ của nền kinh tế, bám sát mục tiêu, định hướng đề ra, tác động cả phía cung và phía cầu, đáp ứng yêu cầu cả trong ngắn và dài hạn.

Giải pháp phục hồi và phát triển  kinh tế bền vững trong năm 2022-2023 - Ảnh 3

Ngoài ra, triển vọng tăng trưởng GDP trong năm 2022 và 2023 sẽ được củng cố nhờ đầu tư khối tư nhân, đầu tư công, hồi phục tiêu dùng và đà tăng trưởng tiếp tục của tiêu dùng trong nước. Mặc dù, tiêu dùng có suy giảm (thể hiện qua tốc độ tăng trưởng doanh thu Bán lẻ) trong năm 2020 và 2021, nhưng được dự báo đang trên đà hồi phục tốt trong năm 2022 (Hình 3). Ngoài ra, ngành dịch vụ ăn uống và lưu trú được kỳ vọng sẽ trở lại bình thường nhờ sự phục hồi của ngành Du lịch, với sự tăng trưởng trở lại của lượng khách du lịch trong nước và quốc tế.

Bên cạnh đó, việc Việt Nam ký kết và tham gia hàng loạt các Hiệp định thương mại tự do với những ưu đãi thuế suất cũng sẽ giúp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa đến các thị trường truyền thống và thị trường mới. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính chung 5 tháng đầu năm 2022, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa tiếp tục duy trì mức tăng cao với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 305,1 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 16,3%; nhập khẩu tăng 14,9%. Riêng tháng 5, với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 62,69 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2021. Cán cân thương mại hàng hóa 5 tháng đầu năm 2022 xuất siêu đạt 434 triệu USD...

Giải pháp phục hồi và phát triển  kinh tế bền vững trong năm 2022-2023 - Ảnh 4

Một trong những lợi thế khác được coi cũng sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững là việc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển KT-XH 05 năm 2021-2025 đều lựa chọn chuyển đổi mô hình kinh tế sang tăng trưởng xanh, kinh tế xanh. Điều này cho thấy, Việt Nam bắt nhịp nhanh và kịp thời vào dòng chảy của các xu hướng mới như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, nhằm tranh thủ cơ hội để tạo đột phá mới cho phát triển KT-XH nhanh và bền vững. Với chủ trương này, Việt Nam tiếp tục trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn, thân thiện đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, tính đến ngày 20/5/2022, dù vốn đăng ký mới giảm 53,4% so với cùng kỳ năm 2021, nhưng vốn điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần lại tăng mạnh lần lượt là 45,4% và 51,6%. Tính tới ngày 20/5/2022, các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân ước đạt 7,71 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2021. Trong 5 tháng đầu năm, đã có 79 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 3 tỷ USD, chiếm 25,3% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Hàn Quốc đứng thứ hai với trên 2,06 tỷ USD, chiếm 17,6% tổng vốn đầu tư, tăng 12,6% so với cùng kỳ... Những số liệu này phần nào cho thấy, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn để đẩy mạnh hợp tác, thu hút các nguồn lực bên ngoài, kết hợp với các nguồn lực trong nước phục vụ phục hồi và phát triển trong giai đoạn tới.

Bên cạnh những động lực tăng trưởng từ Chương trình Phục hồi và phát triển KT-XH, dự báo, Việt Nam vẫn đối mặt với một số khó khăn, thách thức như: Việc khẩn trương hoàn thiện các cơ chế, chính sách để đảm bảo triển khai nhanh chóng và hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng; Những điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công; Lạm phát có xu hướng tăng cao... Do vậy, để ứng phó với những rủi ro này, cần có hướng dẫn rõ ràng và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan nhằm tăng cường giám sát việc thực hiện Chương trình Phục hồi và phát triển KT-XH để đảm bảo hiệu quả cao nhất.

Một số kiến nghị nhằm phục hồi và phát triển bền vững

Nhằm phục hồi và phát triển kinh tế bền vững trong năm 2022 và 2023 theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ, từ đó tạo sức bật mạnh mẽ cho cả giai đoạn 2021-2025, trong thời gian tới cần chú trọng một số vấn đề sau:

Thứ nhất, kiên trì giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát giá cả, thị trường, bảo đảm cung ứng hàng hóa và các cân đối lớn của nền kinh tế. Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục phối hợp chặt chẽ nhằm thực hiện chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ linh hoạt và hài hòa, đảm bảo kiềm chế lạm phát. Cùng với đó, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý nghiêm nếu phát hiện có hành vi đầu cơ, tích trữ, thao túng giá. Đối với những mặt hàng có nguy cơ thiếu hụt cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đầu tư sản xuất, chủ động nguồn nguyên vật liệu, nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng của nền kinh tế.

Thứ hai, khẩn trương hiện thực hóa các gói hỗ trợ của Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH đến tay người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, hỗ trợ cho người lao động bị mất việc làm, mất thu nhập phải được triển khai hiệu quả với phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, từ đó tạo tâm lý yên tâm, không di dời khỏi nơi làm việc về quê hương, dẫn tới xáo trộn, thiếu hụt nguồn lực lao động.

Thứ ba, lành mạnh hóa thị trường chứng khoán, bất động sản. Đối với thị trường chứng khoán, tiếp tục đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thị trường, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ; tăng cường giám sát, rà soát, nhận diện các mã cổ phiếu có giao dịch bất thường; xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm, các trường hợp cố tình, tái phạm hành vi vi phạm nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin đảm bảo thị trường chứng khoán phát triển theo hướng minh bạch và bền vững. Đối với thị trường bất động sản, cần kiểm soát tốt với những dự án có vấn đề như: đầu cơ tích trữ, mua gom đất, thổi giá… Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp bất động sản, các dự án tốt, có phương án kinh doanh khả quan, khả năng trả nợ gốc và lãi rõ ràng, minh bạch thì cần được các ngân hàng xem xét cấp tín dụng kịp thời. Bởi nếu không được cấp tín dụng kịp thời sẽ dẫn tới nhiều dự án dở dang gặp khó khăn, doanh nghiệp không trả được nợ vay, làm cho ngân hàng lại đối diện với nguy cơ nợ xấu.

Thứ tư, tích cực và đẩy nhanh hơn việc hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp Việt Nam trong mọi lĩnh vực. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành và xử lý công việc; tái cấu trúc quy trình, đơn giản hóa thủ tục hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp và người dân.

Thứ năm, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập. Khai thác có hiệu quả các thị trường FTAs, đặc biệt là CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP và thị trường Mỹ. Đẩy mạnh các hoạt động giao thương, hội nhập, xúc tiến thương mại, giữ vững thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và sản xuất, xuất, nhập khẩu hàng hóa. Đặc biệt là định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để tiếp cận công nghệ tiên tiến, tiếp thu kinh nghiệm quản lý và đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc nhằm thay đổi tầm nhìn và kỹ năng lao động, từ đó giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Tài liệu tham khảo:

  1. Chính phủ (2022), Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình;
  2. Cấn Văn Lực (2022), Kịch bản và động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2022-2023, Diễn đàn Dự báo kinh tế Việt Nam 2022-2023;
  3. Nguyễn Bích Lâm (2022), Dự báo bức tranh lạm phát Việt Nam năm 2022-2023 nhìn từ các biến số kinh tế chính, Diễn đàn Dự báo kinh tế Việt Nam 2022-2023;
  4. Tổng cục Thống kê (2022), Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới quý I và cả năm 2022;
  5. Tổng cục Thống kê (2022), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2022.

 

* TS. Tô Trọng Hùng - Khoa Kinh tế phát triển, Học viện Chính sách và Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

** Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 3/2022