Hoàn thiện chính sách TNDN của Việt Nam trong bối cảnh tham gia Trụ cột 2 về Thuế tối thiểu toàn cầu

Trương Bá Tuấn, Nguyễn Minh Phương

Việc các thành viên Diễn đàn Hợp tác chung thực hiện các giải pháp chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (Diễn đàn IF) thông qua giải pháp 2 trụ cột, trong đó có Trụ cột 2 về thuế tối thiểu toàn cầu vào cuối năm 2021 dự báo sẽ làm thay đổi đáng kể cách thức đánh thuế đối với các công ty đa quốc gia ở nhiều nước trên thế giới. Ảnh hưởng của Trụ cột 2 cũng như ứng phó của các nước khi tham gia Trụ cột 2 đã và đang đặt ra những yêu cầu mới, cấp bách đối với Việt Nam trong việc rà soát, điều chỉnh các chính sách có liên quan, trong đó có chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp. Qua đó, một mặt đảm bảo dành được quyền thu thuế của Việt Nam khi Trụ cột 2 được các nước triển khai áp dụng, mặt khác tiếp tục duy trì được sự hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước.

Nhiều tập đoàn đa quốc gia có công ty con đang hoạt động ở Việt Nam sẽ chịu sự ảnh hưởng của Trụ cột 2.
Nhiều tập đoàn đa quốc gia có công ty con đang hoạt động ở Việt Nam sẽ chịu sự ảnh hưởng của Trụ cột 2.

Quá trình số hóa, toàn cầu hóa trong những thập niên gần đây liên tục phát triển nhanh, tác động mạnh mẽ tới các hoạt động kinh tế, xã hội trên toàn cầu. Đồng thời, cũng đang tạo ra thách thức lớn trong việc đánh thuế đối với thu nhập của các công ty đa quốc gia.

Nhiều công ty đa quốc gia bằng các thủ thuật và biện pháp khác nhau đã tìm cách khai thác và lợi dụng các lỗ hổng về chính sách thuế của các nước để giảm số thuế phải nộp, trong đó có: (i) tăng các khoản chi phí hợp lệ được khấu trừ thuế nhằm làm giảm cơ sở tính thuế; hoặc (ii) chuyển phần lợi nhuận đáng ra phải chịu thuế ở quốc gia này sang một quốc gia khác có thuế suất thấp hơn; hoặc (iii) sử dụng các hoạt động kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ thông tin (CNTT), các mô hình kinh doanh mới, các hoạt động thương mại điện tử mà không cần có “sự hiện diện vật lý” nhằm né tránh các biện pháp quản lý thuế truyền thống.

Cùng với đó, trong những thập niên gần đây, “cạnh tranh” thuế quốc tế giữa các nước cũng đã trở thành một hiện tượng phổ biến, nhất là đối với thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Để thu hút được vốn, lao động và công nghệ từ bên ngoài, nhiều quốc gia, nhất là các nước đang phát triển đã xem thuế như là một công cụ hữu hiệu để gia tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước. Vì thế, nhiều quốc gia đã đưa ra các chính sách ưu đãi về thuế ở mức cao, giảm mạnh mức thuế suất thuế TNDN, tạo nên những “cuộc đua đến đáy” trong cạnh tranh về thuế TNDN. Việc chuyển lợi nhuận của các công ty đa quốc gia vì thế đã trở nên phức tạp hơn và có quy mô lớn hơn.

Chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận đã trở thành một thách thức toàn cầu đòi hỏi các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới cần chung tay giải quyết. Tháng 6/2013, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã khởi xướng và được nguyên thủ các quốc gia G20 (Nhóm 20 nền kinh tế lớn) thông qua Sáng kiến chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (Base Erosion and Profit Shifting-BEPS).

Sau đó, OECD và G20 đã đề ra một gói giải pháp tổng thể với 15 hành động nhằm ngăn chặn việc xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Để đảm bảo các hành động này được triển khai hiệu quả, Diễn đàn hợp tác thực hiện các giải pháp chống xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển lợi nhuận (IF) đã được thành lập vào năm 2016, bao gồm các quốc gia thành viên và không phải thành viên của OECD và G20.

Ngày 8/10/2021, thế giới được chứng kiến một bước tiến lớn trong hợp tác về thuế toàn cầu khi các thành viên Diễn IF thông qua Giải pháp Hai trụ cột nhằm cải cách các quy tắc về thuế quốc tế để giải quyết các thách thức phát sinh trong quá trình số hóa nền kinh tế, đảm bảo các công ty đa quốc gia phải trả một phần thuế công bằng ở những nơi mà các công ty này hoạt động và tạo ra lợi nhuận.

Trong Giải pháp Hai trụ cột, nếu như Trụ cột 1 tập trung vào phân bổ thuế đối với hoạt động kinh doanh dựa trên kỹ thuật số (phân bổ lại quyền đánh thuế đối với các công ty đa quốc gia giữa nơi đặt trụ sở chính và nơi hoạt động kinh doanh) thì Trụ cột 2 đặt ra mức thuế TNDN tối thiểu toàn cầu 15% đối với các công ty đa quốc gia có doanh thu hợp nhất hàng năm từ 750 triệu Euro trở lên trong 2 năm trong vòng 4 năm soát xét. Mục tiêu mà Trụ cột 2 hướng đến là nhằm làm giảm hoặc triệt tiêu động lực chuyển lợi nhuận của các công ty đa quốc gia thuộc đối tượng áp dụng sang những quốc gia, vùng lãnh thổ có thuế suất thuế TNDN thấp để tránh thuế, đảm bảo lợi nhuận của các công ty này phải được đánh thuế ở mức tối thiểu là 15% dù đang kinh doanh ở bất kỳ đâu.

Theo các nguyên tắc của Trụ cột 2, trường hợp các công ty đa quốc gia có khoản thu nhập phát sinh ở một quốc gia nào đó nhưng khoản thu nhập này chỉ chịu thuế với mức thuế suất hiệu quả thấp hơn mức tối thiểu, quốc gia cư trú của các công ty này được quyền yêu cầu nộp “thuế bổ sung” cho bằng mức thuế tối thiểu 15%. Theo đó, trường hợp công ty đa quốc gia có công ty thành viên thực hiện hoạt động đầu tư tại một quốc gia khác mà được áp dụng mức ưu đãi thuế TNDN cao dẫn đến số thuế phải nộp càng thấp thì số tiền thuế mà công ty phải nộp bổ sung tại quốc gia cư trú càng nhiều. Thực hiện Trụ cột 2 kỳ vọng sẽ tạo ra một “sân chơi bình đẳng” cho tất cả các nước, giải quyết vấn đề thất thu thuế toàn cầu từ các hành vi chuyển lợi nhuận, đồng thời, gián tiếp hạn chế “cuộc đua xuống đáy” trong giảm thuế suất thuế TNDN.

Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã phê duyệt và đồng ý tham gia Trụ cột 2. Theo nguyên tắc thu thuế bổ sung của Trụ cột 2 đã được công bố thì đây không phải là một cam kết quốc tế có tính ràng buộc pháp lý và các nước thành viên Diễn đàn IF không bắt buộc phải áp dụng. Chính phủ các nước vẫn có thể thiết lập mức thuế suất thuế TNDN nội địa mong muốn. Tuy nhiên, nếu lựa chọn áp dụng các quy định này thì các nước sẽ phải thực hiện nhất quán, phù hợp với quy định mẫu và hướng dẫn chung và trong trường hợp một nước không áp dụng thì vẫn phải chấp nhận các quy định thuế tối thiểu toàn cầu được các thành viên khác áp dụng.

Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam và những vấn đề đặt ra khi Việt Nam tham gia Trụ cột 2

Trong 10 năm qua, chính sách thuế TNDN của Việt Nam đã có những sự điều chỉnh và cải cách quan trọng, bám sát các mục tiêu, định hướng xác định trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020, từng bước tiếp cận với xu hướng cải thuế TNDN trên thế giới.

Điểm nổi bật trong tiến trình cải cách chính sách thuế TNDN của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là đã đảm bảo duy trì một hệ thống chính sách thuế TNDN không có sự đối xử phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, thực hiện giảm nghĩa vụ thuế TNDN cho mọi loại hình doanh nghiệp thông qua điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN phổ thông; từng bước mở rộng cơ sở thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời, quy định rõ ràng, minh bạch hơn các nội dung liên quan đến thu nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế, các khoản thu nhập được trừ khi xác định nghĩa vụ thuế.

Cùng với việc điều chỉnh giảm mức thuế suất phổ thông thuế TNDN, chính sách ưu đãi thuế TNDN của Việt Nam cũng đã có nhiều sự điều chỉnh cả về đối tượng, mức độ ưu đãi, phạm vi lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn được ưu đãi thuế; bổ sung ưu đãi thuế TNDN đối với một số đối tượng cần khuyến khích như dự án đầu tư có quy mô lớn, sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, các dự án thuộc diện được hỗ trợ đầu tư đặc biệt; bổ sung quy định miễn giảm thuế đối với dự án đầu tư mở rộng nếu đáp ứng một số tiêu chí theo quy định.

So với mặt bằng chung của nhiều quốc gia, chính sách ưu đãi về thuế TNDN của Việt Nam hiện nay là khá “hào phóng”, trong đó có: áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm, trường hợp đặc biệt thu hút đầu tư được kéo dài thêm 15 năm (tổng thời gian không quá 30 năm); 15% trong 12 năm; 17% trong 10 năm; 10% suốt đời dự án đối với 5 khoản thu nhập; miễn, giảm thuế có thời hạn (4 năm miễn, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo; 2 năm miễn, giảm 50% trong 8 năm tiếp theo; 3 năm miễn, giảm 50% trong 7 năm tiếp theo; 2 năm miễn, giảm 50% trong 4 năm tiếp theo). Lĩnh vực được hưởng ưu đãi về thuế TNDN được quy định tại Luật Thuế TNDN, địa bàn ưu đãi đầu tư thực hiện theo Nghị định của Chính phủ hướng dẫn Luật Đầu tư. Ngoài ra, Luật Thuế TNDN có quy định miễn thuế đối với 11 khoản thu nhập, cho phép chuyển lỗ sang các năm sau cũng như cho phép được áp dụng cơ chế khấu hao nhanh.

Ngoài ra, trên cơ sở quy định của Luật Đầu tư năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 29/2021/QĐ-TTg ngày 6/10/2021 về ưu đãi đầu tư đặc biệt, trong đó, đã quy định các chính sách ưu đãi về thuế TNDN ở mức rất cao cho một số dự án đáp ứng được các tiêu chí đề ra.

Việc áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế TNDN cùng với các biện pháp cải cách có liên quan khác đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong nước trong giai đoạn vừa qua, đưa Việt Nam trở thành địa chỉ đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Qua đó, đã tạo ra các nền tảng quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gia tăng xuất khẩu; tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thúc đẩy chuyển giao công nghệ.

Với mức thuế suất phổ thông thuế TNDN là 20% đã đảm bảo cao hơn mức thuế suất tối thiểu 15% của Trụ cột 2. Tuy nhiên, do áp dụng ưu đãi thuế TNDN, bao gồm suất thấp và được ưu đãi miễn thuế, giảm thuế nên thuế suất thuế TNDN thực tế đối với một số dự án của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong thời gian được hưởng ưu đãi sẽ thấp hơn mức thuế suất 15% theo Trụ cột 2. Theo đó, nhiều tập đoàn đa quốc gia có công ty con đang hoạt động ở Việt Nam sẽ chịu sự ảnh hưởng của Trụ cột 2.

Với khung khổ chính sách thuế TNDN của Việt Nam như hiện hành và trong bối cảnh nhiều quốc gia, bao gồm cả những quốc gia đầu tư ra bên ngoài và những quốc gia nhận đầu tư từ bên ngoài, đã và đang có những động thái trong việc đưa ra các sách liên quan đến Trụ cột 2, tác động của Trụ cột 2 đối với Việt Nam là khá rõ ràng, thể hiện trên 2 nội dung quyền đánh thuế của Việt Nam khi các quốc gia khác thực hiện Tru cột 2 và hiệu quả của các chính sách khuyến khích thu hút đầu tư qua ưu đãi về thuế TNDN mà Việt Nam đang áp dụng. Đây là 2 vấn đề có quan hệ với nhau và Việt Nam cần nghiên cứu một cách tổng thể để có các ứng phó, điều chỉnh chính sách phù hợp, không chỉ riêng về chính sách thuế TNDN mà còn cả các chính sách về hỗ trợ đầu tư ngoài thuế theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Liên quan đến quyền đánh thuế, Trụ cột 2 cho phép quốc gia mà nơi công ty mẹ tối cao đặt trụ sở chính được thu phần thuế bổ sung trong trường hợp mức thuế suất thực tế của công ty con ở nước ngoài (nước nhận đầu tư) thấp hơn 15%. Theo đó, khi các quốc gia này áp dụng cơ chế của Trụ cột 2, nếu Việt Nam, là quốc gia nhận vốn đầu tư với nhiều chính sách ưu đãi về thuế TNDN, không có cơ chế để giữ lại quyền đánh thuế tại Việt Nam thì phần thuế bổ sung này sẽ thuộc về nước đi đầu tư. Mặt khác, Việt Nam cũng có các nhà đầu tư ra nước ngoài. Nếu không điều chỉnh quy định của pháp luật trong nước,Việt Nam cũng sẽ bỏ lỡ cơ hội dành quyền đánh thuế bổ sung đối với các doanh nghiệp Việt Nam thuộc đối tượng áp dụng Trụ cột 2 có hoạt động đầu tư ra nước ngoài và đang được áp dụng mức thuế suất thuế TNDN thực tế thấp hơn 15% tại các nước khác.

Đối với chính sách thu hút vốn đầu tư, một số chính sách ưu đãi về thuế TNDN của Việt Nam hiện đang được áp dụng sẽ không còn hiệu quả đối với các doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng Trụ cột 2. Với ngưỡng doanh thu hàng năm của công ty mẹ tối cao là từ 750 triệu Euro thì phạm vi doanh nghiệp FDI chịu ảnh hưởng của Trụ cột 2 dự báo sẽ là không nhỏ, đồng thời cũng sẽ có những ảnh hưởng lớn đến các công ty đa quốc gia đang dự kiến đầu tư vào Việt Nam.

Mặc dù cơ chế áp dụng thu thuế bổ sung đối với công ty mẹ ở nước ngoài không ảnh hưởng đến số thu thuế của Việt Nam đối với các công ty con của công ty này đang hoạt động tại Việt Nam và theo chính sách hiện hành cũng như không bắt buộc Việt Nam phải cắt giảm ưu đãi về thuế TNDN đã cấp cho các công ty con. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Việt Nam phải có các biện pháp ứng phó phù hợp để vừa không mất quyền đánh thuế của mình, mặt khác vừa duy trì được sự hấp dẫn của môi trường đầu tư so với các quốc gia khác. Có thể thấy khi các quốc gia nơi có nguồn vốn đầu tư tham gia thực hiện Trụ cột 2 sẽ tác động làm giảm tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thông qua chính sách ưu đãi thuế TNDN. Các doanh nghiệp FDI trong tương lai và các doanh nghiệp FDI đang hoạt động có thể phát sinh các khoản thu nhập tại Việt Nam mà công ty mẹ phải nộp bổ sung thêm tiền thuế tại nước sở tại, làm giảm đi tính cạnh tranh của các doanh nghiệp này khi đầu tư vào Việt Nam. Theo đó, Việt Nam có thể bị bỏ lại phía sau trong thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài nếu không có những điều chỉnh chính sách thu hút, hỗ trợ đầu tư ngoài thuế phù hợp.

Trụ cột 2 chỉ áp dụng đối với một số doanh nghiệp nhất định (có doanh thu hàng năm vượt 750 triệu Euro) và Trụ cột 2 cũng không yêu cầu Việt Nam phải xóa bỏ các chính sách ưu đãi về thuế TNDN đang áp dụng. Yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam là phải có những chính sách phù hợp để tiếp tục hỗ trợ cho các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của Trụ cột 2. Đối với những doanh nghiệp không thuộc phạm vi ảnh hưởng và chịu sự chi phối của Trụ cột 2, cần tiếp tục duy trì các chính sách ưu đãi về thuế TNDN để thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời, không làm xáo trộn hệ thống các chính sách ưu đãi về thuế TNDN hiện đang áp dụng. Tuy nhiên, trong bối cảnh của Trụ cột 2, Việt Nam cũng cần rà soát lại tổng thể các chính sách ưu đãi hiện nay để hợp lý hóa, loại bỏ các chính sách ưu đãi dư thừa, không phù hợp nhằm hạn chế sự “mất mát” nguồn thu ngân sách không cần thiết.

Một số định hướng hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam trong bối cảnh thực hiện Trụ cột 2

Đến nay, nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực đã lên kế hoạch hoàn thành thủ tục nội luật trong năm 2023 để thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024. Trong đó, các quốc gia có số vốn đầu tư nước ngoài lớn vào Việt Nam và có nhiều doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng của Trụ cột 2, ví dụ như Hàn Quốc. Để ứng phó với việc các quốc gia trên thế giới thực thi Trụ cột 2 đòi hỏi Việt Nam cần phải khẩn trương rà soát, điều chỉnh hệ thống chính sách thuế TNDN và chính sách hỗ trợ đầu tư một cách phù hợp để đảm bảo tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước; đồng thời, giữ lại quyền đánh thuế của Việt Nam trước các quốc gia khác đối với 2 đối tượng có quy mô doanh thu toàn cầu từ 750 triệu Euro trở lên, bao gồm: các doanh nghiệp thuộc các công đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam và các doanh nghiệp của Việt Nam có hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Trong đó, về thuế TNDN, các chính sách cụ thể nên cân nhắc bao gồm:

Thứ nhất, thực hiện rà soát và xây dựng lộ trình cụ thể để sửa đổi toàn diện các quy định của Luật thuế TNDN, bám sát các định hướng, chủ trương của Đảng và Nhà nước được xác định trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng; Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm 2021-2026; Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030. Qua đó, phát huy được một cách có hiệu quả vai trò của sắc thuế này trong hệ thống thuế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng cải cách thuế TNDN trên thế giới.

Việc sửa đổi, bổ sung chính sách thuế TNDN cần được việc được thực hiện theo nguyên tắc: i) Mở rộng cơ sở tính thuế thông, thu hẹp diện miễn, giảm thuế TNDN, trong đó, có tính đến ảnh hưởng của Trụ cột 2 về thuế tối thiểu toàn cầu trong việc rà soát, sửa đổi bổ sung chính sách ưu đãi thuế TNDN; ii) Áp dụng chính sách thuế TNDN không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo duy trì được sự cạnh tranh về thuế so với các nước trong khu vực; iii) Có các biện pháp phù hợp để chống xói mòn nguồn thu do sự xuất hiện của các “mô hình kinh doanh mới” và sự gia tăng của các hoạt động giao dịch thương mại điện tử xuyên biên giới. Đồng thời, coi trọng “tính trung lập” của thuế TNDN, không gắn cho thuế TNDN các chức năng mà bản thân sắc thuế này không thể đảm nhận hoặc đảm nhận không hiệu quả.

Thứ hai, xây dựng lộ trình, kế hoạch phù hợp để giữ lại quyền đánh thuế cho Việt Nam, đồng thời, nghiên cứu để có các chính sách hỗ trợ đầu tư phù hợp cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Với sự hiện diện của Trụ cột 2 khi quốc gia nơi có công ty mẹ tối cao đạt ngưỡng doanh thu theo quy định thực hiện Trụ cột 2 thì quốc gia này sẽ có quyền thu thuế bổ sung nếu mức thuế suất hiệu quả mà công ty con của công ty này tại Việt Nam phải nộp chưa đến mức 15%.

Theo đó, cần nghiên cứu áp dụng quy định thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn (QDMTT) theo hướng dẫn của OECD để thu thuế bổ sung đối với các doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng của Trụ cột 2 và đang được hưởng ưu đãi thuế TNDN ở Việt Nam. Qua đó, đảm bảo được quyền đánh thuế của Việt Nam. Cụ thể, bổ sung quy định trường hợp doanh nghiệp có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực, địa bàn ưu đãi thuế mà có công ty mẹ tối cao đạt mức doanh thu tối thiểu từ 750 triệu Euro/năm trở lên thì áp dụng QDMTT được quy định trong tài liệu Quy tắc mẫu của OECD.

Cùng với đó, để đảm bảo tính hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài trong bối cảnh thực hiện Trụ cột 2 cần cân nhắc xây dựng các hình thức hỗ trợ phù hợp ngoài thuế nhằm bù đắp cho các nhà đầu tư bị ảnh hưởng. Nói cách khác, cần nghiên cứu để có những chính sách hỗ trợ thay thế cho những ưu đãi về thuế TNDN đã bị giảm tác dụng do quy định của Trụ cột 2.

Thứ ba, nghiên cứu bổ sung vào pháp luật về thuế TNDN quy định để áp dụng quy định tổng hợp thu nhập chịu thuế tối thiểu (Income Inclusion Rule - IIR) theo nguyên tắc của Trụ cột 2 đối với các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng ngưỡng doanh thu hợp nhất hàng năm đạt tối thiểu 750 triệu Euro (thuộc đối tượng áp dụng của thuế tối thiểu toàn cầu) có đầu tư ra nước ngoài để thu phần chênh lệch (nếu có). Qua đó, đảm bảo được quyền thu thuế của Việt Nam trong trường hợp cần thiết. Việc áp dụng quy định IIR sẽ làm tăng thu ngân sách nhà nước đối với phần thuế TNDN thu bổ sung từ các công ty Việt Nam có công ty thành viên ở nước khác có số thuế thu nhập doanh nghiệp thực tế thấp hơn mức tối thiểu (15%).

Việc sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều nội dung và nhiều luật khác có liên quan nên đòi hỏi phải có lộ trình phù hợp. Mặt khác, các nguyên tắc của Trụ cột 2 là vấn đề mới, chưa có tiền lệ. Ứng phó của nhiều quốc gia đối với Trụ cột 2 đến nay cũng chưa thực sự rõ ràng và cụ thể. Theo đó, trong giai đoạn trước mắt 2024-2025 khi Luật Thuế TNDN chưa sửa đổi, bổ sung theo lộ trình, để kịp thời hạn chế ảnh hưởng của Trụ cột 2 cần nghiên cứu trình Quốc hội ban hành Nghị quyết thí điểm về việc áp dụng thuế TNDN theo quy định về Thuế tối thiểu toàn cầu do Diễn đàn IF công bố.

Trong đó, có quy định IIR và quy định QDMTT để giữ lại quyền đánh thuế đối với các doanh nghiệp chịu sự tác động của Trụ cột 2; đồng thời, nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền ban hành các giải pháp hỗ trợ ngoài thuế để kịp thời hỗ trợ cho các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của Trụ cột 2 và phải nộp thuế bổ sung theo cơ chế QDMTT. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Thuế TNDN cần được tiến hành trên cơ sở đánh giá cụ thể kết quả thực hiện Nghị quyết thí điểm này, cập nhật đầy đủ ứng phó của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, đồng thời, bám sát các định hướng về cải cách thuế TNDN được xác định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, nhất là Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030.

Tài liệu tham khảo:

  1. OECD (2021), “Statement on the Two-Pillar Solution to Address the Tax Challenges Arising from the Digitalisation of the Economy”;
  2. Tổng cục Thuế (2023), “Những vấn đề đặt ra trong bối cảnh Thuế tối thiểu toàn cầu và dự kiến sửa đổi từ góc độ cơ quan quản lý nhà nước”, Kỷ yếu hội thảo “Thuế tối thiểu toàn cầu và tác động đối với chính sách ưu đãi đầu tư tại Việt Nam”, tháng 4 năm 2023;
  3. Trương Bá Tuấn (2018), “Luận cứ hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Bộ Tài chính.