Phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ đáp ứng yêu cầu mới

ThS. Nguyễn Thị Mai Phương - NCS, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế cùng những tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra yêu cầu cấp thiết về phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ để Việt Nam có thể tăng lợi thế cạnh tranh và tận dụng những cơ hội mà cuộc cách mạng này mang lại. Vì thế, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Việt Nam luôn chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học - công nghệ cùng nhiều giải pháp thực hiện ngày càng đồng bộ, toàn diện, từng bước đưa đất nước phát triển bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Đặt vấn đề

Cuộc Cách mạng khoa học công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới.

Thực tế cho thấy, những tác động của cuộc CMCN 4.0 cùng sự ra đời của các công nghệ mới đã hình thành nhiều ngành nghề mới, nhất là những ngành nghề có sự liên quan đến tương tác giữa con người với máy móc, chủ yếu là các ngành nghề về công nghệ thông tin (CNTT), công nghệ kỹ thuật điện như: robot và trí tuệ nhân tạo, các ngành về công nghệ sinh học và các ngành về dịch vụ như: phát triển và xây dựng in 3D.

Đồng thời, nhiều loại hình công việc, nhất là những công việc đòi hỏi lao động chân tay chính xác hay những công việc có tính chất lặp đi, lặp lại ngày càng có nguy cơ bị robot và máy móc thay thế. Theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (2019), trong 10 năm tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự thay thế lao động khi ứng dụng công nghệ số. Theo đó, có tới 70% số việc làm ở mức rủi ro cao (có xác suất bị thay thế trên 70%), 18% có rủi ro trung bình (có xác suất bị thay thế từ 30-70%) và 12% có rủi ro thấp (có xác suất bị thay thế dưới 30%).

Những tác động trên cho thấy sự cần thiết phải có nguồn nhân lực chất lượng cao để có thể làm chủ được công nghệ, vận hành máy móc, dây chuyền sản xuất. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về nguồn nhân lực mới, ở tầm vĩ mô cấp quốc gia cũng như trong mỗi tổ chức, doanh nghiệp, nhất là những lĩnh vực có liên quan đến CNTT hay chịu ảnh hưởng nhiều từ nền tảng công nghệ mới này. Đặc biệt, khi xu hướng chuyển đổi số, ứng dụng kinh tế số sẽ là xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 thì vai trò trọng tâm của nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực KHCN ngày càng trở nên cần thiết.

Chủ trương phát triển nhân lực khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế

Trong quá trình lãnh đạo đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta luôn khẳng định phát triển nguồn nhân lực KHCN là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Đại hội VIII (1996) đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Văn kiện Đại hội, 1996: 21).

Thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển con người trong thời kỳ đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ IX (01/2001) nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, KHCN; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức” (Văn kiện Đại hội, 2001: 263). Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội X (01/2006) với quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với KHCN thực sự là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.

Từ Đại hội XI (01/2011), yêu cầu phát triển nguồn nhân lực gắn với phát triển KHCN càng đặt ra bức thiết vừa để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi của nền kinh tế số, vừa thích ứng với cuộc CMCN 4.0. Đại hội đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó ở khâu đột phá thứ hai: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng KHCN” (Văn kiện Đại hội, 2011: 106).

Đại hội XII (01/2016) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh quan điểm phát triển nguồn nhân lực KHCN là một trong những vấn đề mới trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Đại hội khẳng định: “Hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy KHCN, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu” (Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội, 2016: 90). Trên cơ sở đó, Đại hội XII xác định phát triển nguồn nhân lực KHCN là nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản và xuyên suốt, trong đó trước hết là: “Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ KHCN, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp” (Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội, 2016: 93).

Kế thừa và phát triển quan điểm Đại hội XII về đầu tư cho nhân lực KHCN, Đại hội XIII (2/2021) nêu rõ tư tưởng chỉ đạo, phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng con người Việt Nam trong điều kiện mới, nhất là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thích ứng với cuộc CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế. Đại hội nhấn mạnh: “Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người” (Văn kiện Đại hội, tập 1, 2021: 231). Trên cơ sở đó, để phát huy và tăng cường vai trò của nguồn nhân lực KHCN, Đại hội nêu rõ cần chú trọng: “Thực thi hiệu quả chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng cán bộ KHCN khơi dậy sức sáng tạo, nâng cao trách nhiệm và tôn trọng sự khác biệt trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội. Tháo gỡ các vướng mắc trong chính sách đào tạo, thu hút và sử dụng nhân lực KHCN đặc biệt là nhân lực có trình độ chuyên môn cao, nhà khoa học đầu ngành” (Văn kiện Đại hội, tập 2, 2021: 133).

Như vậy, quan điểm của Đảng phát triển nguồn nhân lực KHCN là hệ thống toàn diện đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, đồng bộ của Đảng trong phát triển KHCN. Đây thực sự là hệ thống các động lực để mỗi nhà khoa học tiếp tục cống hiến vì sự phát triển của KHCN nước nhà, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Thực trạng nguồn nhân lực khoa học công nghệ của Việt Nam

Số lượng và quy mô nguồn nhân lực khoa học công nghệ Việt Nam

Sau nhiều năm thực hiện chủ trương phát triển nguồn nhân lực KHCN, đến nay số lượng và quy mô nguồn nhân lực KHCN của nước ta ngày càng tăng. “Năm 2020, số cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng trở lên hiện có khoảng 1,5 triệu người, trong đó có hơn 14.000 tiến sĩ, hơn 11.000 thạc sĩ... Số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực KHCN hơn 34.000 người, hơn 42.000 cán bộ giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và hàng vạn cán bộ KHCN làm việc trong các ngành, lĩnh vực kinh tế khác” (chinhtrivaphattrien.vn, 2022).

Tuy nhiên, mặc dù số lượng cán bộ KHCN có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ được nâng lên rõ rệt, nhưng vẫn thiếu đội ngũ kế cận nguồn nhân lực chất lượng cao (có học hàm GS và PGS, học vị TS và TSKH), nhất là trong các lĩnh vực KHCN ưu tiên, lĩnh vực công nghệ cao do phần lớn họ đều đến tuổi nghỉ chế độ. Hay như đối với nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 cũng đang thiếu. Theo báo cáo về ngành CNTT VietnamWorks: “Đến năm 2025 sẽ thiếu hơn 500.000 nhân lực CNTT, chiếm hơn 78% tổng số nhân lực CNTT thị trường cần” (daihoclongan.edu.vn, 2021).

Bên cạnh đó, nhân lực KHCN phân bố không đều giữa các địa phương, thường tập trung số lượng lớn ở các các thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, TP. Hà Nội, TP. Đà Nẵng... trong khi ở các tỉnh khó khăn chiếm tỷ lệ thấp, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, dân tộc ít người và miền núi. Ở nhiều địa phương còn thiếu cả về số lượng và chất lượng đội ngũ nhà khoa học: “Trên 90% số tổ chức KHCN có số nhân lực dưới 30 người, trong đó có nhiều tổ chức có số nhân lực dưới 10 người” (vass.gov.vn, 2022).

Chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ Việt Nam

Nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực KHCN có bước tiến bộ về mọi mặt về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng nghề. Đặc biệt, việc tăng cường nghiên cứu, ứng dụng KHCN trên các lĩnh vực trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ; lĩnh vực y dược; nông nghiệp; trong nghiên cứu cơ bản nên đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển các vùng kinh tế - xã hội, vùng kinh tế trọng điểm, phát huy lợi thế và tiềm năng của các địa phương.

Tuy nhiên, xét về tổng thể, chất lượng nguồn nhân lực KHCN vẫn còn hạn chế. Số lượng nguồn nhân lực KHCN có trình độ tiến sĩ tuy khá đông về số lượng nhưng về trình độ, nhiều người vẫn chưa đáp ứng được chuẩn quốc tế, chưa sử dụng thành thạo Tiếng Anh hoặc ngoại ngữ chuyên ngành. “Hơn 10.000 người có học vị tiến sĩ, nhưng chỉ có khoảng 30% cán bộ có thể sử dụng thành thạo ngoại ngữ có thể trao đổi chuyên môn với cán bộ/tổ chức quốc tế” (Đào Thị Thu Thủy, 2020). Hơn nữa, trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ, Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. Mặc dù, các nhà khoa học Việt Nam đã nỗ lực phát triển các nghiên cứu theo định hướng ứng dụng, tạo được nhiều công nghệ mới, sản phẩm mới, nhưng vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ. Nguyên nhân của thực trạng này là do nhân lực cho nghiên cứu và phát triển công nghệ còn mỏng, nhất là những lĩnh vực công nghệ mới của CMCN 4.0 như kỹ thuật số và CNTT, tự động hóa, vật lý và khoa học vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học và quá trình nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ còn yếu.

Chính sách đãi ngộ nguồn nhân lực KHCN

Việc thực hiện chính sách thu hút, đãi ngộ và tạo môi trường làm việc cho đội ngũ nguồn nhân lực KHCN đã phát huy hiệu quả, có chính sách khuyến khích cán bộ KHCN làm việc ở vùng nông thôn và những vùng có điều kiện khó khăn, cũng như việc khen thưởng đãi ngộ xứng đáng đối với tập thể và cá nhân có cống hiến trong lĩnh vực KHCN. Điều này đã góp phần tạo động lực cho nhiều cán bộ KHCN cống hiến cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn... Trong đó, có một số tổ chức KHCN theo mô hình tiên tiến của thế giới đã và đang tích cực cải thiện các chính sách lương thưởng và cơ sở vật chất nhằm thu hút nguồn nhân lực KHCN chất lượng cao không chỉ trong nước mà còn trên thế giới đến làm việc như: Viện KHCN Việt Nam - Hàn Quốc (V- KIST), Trường Đại học Việt - Đức, Trường Đại học Việt - Pháp, Trường Đại học Việt - Nhật, Đại học FPT, Đại học Tôn Đức Thắng…

Tuy nhiên, các tổ chức KHCN công lập, kể cả các tổ chức KHCN có tiềm lực mạnh ít có cơ hội tuyển dụng được nguồn nhân lực trẻ, có trình độ khá, giỏi, chuyên tâm nghiên cứu khoa học để đào tạo, kế cận. Điều này là do mức lương và chính sách đãi ngộ của Nhà nước vẫn thấp so với các công ty, các tập đoàn, đặc biệt là các tổ chức quốc tế, các công ty liên doanh.

Một số giải pháp đề xuất

Thực trạng trên đặt ra yêu cầu khách quan là phải có nguồn nhân lực tương xứng với chất lượng cao, đòi hỏi Việt Nam phải có những chiến lược để khai thác tốt nhất mọi nguồn lực sẵn có, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó, để phát triển nhân lưc̣ KHCN đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế cần chú trọng một số giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện, bổ sung công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực KHCN.

Công tác xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển nguồn nhân lực KHCN là một trong những giải pháp có tính chất quyết định và tác động trực tiếp đến sự phát triển của nguồn nhân lực này. Thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển không chỉ bảo đảm cho nguồn nhân lực KHCN có sự phát triển toàn diện về số lượng, chất lượng, cơ cấu mà còn tạo hành lang pháp lý vững chắc để nguồn nhân lực này yên tâm công tác, cống hiến. Do đó, “Trong quy hoạch, chiến lược phát triển nguồn nhân lực KHCN cần xác định rõ nguồn và con đường, biện pháp xây dựng nguồn, bảo đảm sự phát triển liên tục của nguồn nhân lực này” (chinhtrivaphattrien.vn, 2022). Vì vậy, để có thể quy hoạch, xây dựng chiến lược chính xác, trước hết, Nhà nước cần căn cứ vào nhu cầu nguồn nhân lực KHCN, căn cứ vào số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực KHCN, xác định được điểm xuất phát, mục tiêu phát triển của từng giai đoạn và một số giải pháp phù hợp với điều kiện phát triển đất nước, từ đó có phương án tạo nguồn, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ.

Thứ hai, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực KHCN.

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc CMCN 4.0 có tác động nhiều mặt và đặt ra những yêu cầu mới trong việc đào tạo, phát triển một thế hệ mới các doanh nhân, đội ngũ trí thức, những người lao động có trình độ chuyên môn cao, có tay nghề vững vàng, có năng lực quản lý, sản xuất, kinh doanh. Trong đó, xét về dài hạn, để đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực KHCN cho cuộc CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế thì hệ thống giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục đại học và nghề nghiệp sẽ đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, các cơ sở đào tạo trên cả nước cần vận dụng những thành tựu của công nghệ để nâng cao hiệu quả dạy học, trang bị cho người học kiến thức để làm chủ KHCN từ cơ bản đến hiện đại. Chiến lược phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 cũng nêu rõ: “Tăng cường đào tạo kiến thức về KHCN, nâng cao năng lực tin học, ngoại ngữ, rèn luyện năng lực thiết kế sáng tạo gắn với các dự án thực tế trong trường phổ thông, đặc biệt thông qua hình thức đào tạo STEM/STEAM. Tăng cường định hướng nghề nghiệp và tư vấn theo đuổi khoa học, kỹ thuật và ngành kỹ thuật trong các trường học phổ thông và các trường đại học” (tulieuvankien.dangcongsan.vn, 2022).

Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách để thu hút, sử dụng, đãi ngộ đối với nguồn nhân lực KHCN.

Để thu hút nguồn nhân lực KHCN, trước hết cần tạo lập môi trường, điều kiện làm việc tốt nhất cho đội ngũ này vừa để thu hút, tuyển dụng nhân tài vừa để có thể giữ chân nhân tài. Môi trường làm việc, nghiên cứu được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, phòng nghiên cứu, thực hành, thư viện hiện đại… sẽ góp phần quan trọng để cho ra đời nguồn nhân lực trẻ, trí tuệ cao đáp ứng nhu cầu CMCN 4.0. Do đó, Nhà nước cần quan tâm đầu tư thích đáng hơn và có cơ chế đặc biệt để phát triển và phát huy được vai trò trung tâm trong các hoạt động KHCN của các trung tâm nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực KHCN cao như: Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam, hai trường Đại học quốc gia và một số trường đại học khoa học kỹ thuật. Với lực lượng cán bộ trình độ cao trong tất cả các lĩnh vực chủ chốt của các ngành KHCN, các cơ sở này không chỉ triển khai những nghiên cứu khoa học cơ bản và phát triển công nghệ nguồn, giải quyết những vấn đề lớn, đòi hỏi tính liên ngành KHCN cao và phức tạp mà còn đóng vai trò quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực công nghệ theo định hướng các nhu cầu của CMCN 4.0 như: công nghệ số, vật lý, khoa học vật liệu và công nghệ sinh học và đa ngành khác.

Thứ tư, đẩy mạnh quá trình nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực KHCN.

Hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực KHCN là một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế về mọi mặt. Do đó, trước hết cần đa dạng hoá đối tác và hình thức hợp tác quốc tế về KHCN, lựa chọn đối tác chiến lược, gắn kết giữa hợp tác quốc tế về KHCN với hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác KHCN. Để hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực KHCN có hiệu quả, Nhà nước cần thực hiện chính sách thu hút chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài có trình độ cao đến Việt Nam tham gia nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn, đảm đương các chức vụ quản lý nghiên cứu KHCN. Đồng thời, có chính sách đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp khởi nghiệp ở nước ngoài, sau đó trở về nước làm việc.

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Tr.21. Hà Nội. NXB Chính trị quốc gia;
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Tr.263. Hà Nội. NXB Chính trị quốc gia;
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Tr.106. Hà Nội. NXB Chính trị quốc gia;
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Tr.90, 93. Hà Nội. NXB Chính trị quốc gia;
  5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. Tr.231. Hà Nội. NXB Chính trị quốc gia;
  6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 2. Tr.133. Hà Nội. NXB Chính trị quốc gia;
  7. Nguyễn Nam Hải (2020), Ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đến người lao động và các hàm ý chính sách. https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/anh-huongcua-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-40-den-nguoi-lao-dong-va-cac-ham-y-chinh-sach-330736.html. Ngày truy cập 15/6/2023;
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 7/2023