ANZ: Giá dầu giảm mang tới các tác động cân bằng

Theo thoibaonganhang.vn

(Tài chính) Giá dầu giảm tác động không lớn tới thâm hụt ngân sách, không gây ra rủi ro với cán cân thương mại, giúp lạm phát thấp hơn và tăng trưởng GDP dự báo sẽ đạt mục tiêu 6,2%.

ANZ: Giá dầu giảm mang tới các tác động cân bằng
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Biến động + biến động = cân bằng

Các nhận định trên được ông Glenn Maguire, chuyên gia kinh tế trưởng khu vực châu Á – Thái Bình Dương (TBD) và bà Eugenia Fabon Victorino, chuyên gia kinh tế khu vực châu Á – TBD của Ngân hàng ANZ đưa ra trong cuộc phỏng vấn với các phóng viên Việt Nam chiều ngày 3/2. Các chuyên gia này nhìn nhận tác động của giá dầu giảm đến 3 yếu tố gồm: Lạm phát, ngân sách Nhà nước (NSNN) và cân bằng thương mại.

Ông Glenn Maguire cho rằng, giá dầu giảm lần này chủ yếu do phía cung tăng và giống với diễn biến của thời kỳ 1984-1985 (giá dầu giảm mạnh khi làn sóng công nghệ khai thác dầu mới hiệu quả hơn và Arab Saudi tăng nguồn cung, qua đó thiết lập chu kỳ giá dầu thấp mới trong 7-8 năm sau đó). Theo dự báo của ANZ, giá dầu thô Brent sẽ ở mức trung bình khoảng trên 50 USD/thùng trong năm nay với dự báo diễn biến giá có thể giảm sâu hơn mức hiện tại trong 6 tháng đầu năm, sau đó tăng trở lại lên mức khoảng 60 USD/thùng trong 6 tháng cuối năm.

Với dự báo này, giá dầu sẽ làm cho lạm phát của Việt Nam đã ở mức thấp sẽ càng thấp hơn bởi nó tác động lan tỏa tới các hàng hóa khác. Giá dầu giảm sẽ kích thích người dân tiêu dùng, các DN mở rộng sản xuất kinh doanh nhiều hơn nhưng tác động sẽ có độ trễ nhất định. Đây là lý do tại sao chỉ số niềm tin người tiêu dùng (NTD) Việt Nam ANZ-Roy Morgan tháng 1/2015 vẫn giảm đôi chút nhưng tỷ lệ NTD cho rằng “đây là thời điểm tốt” để mua các vật dụng chính trong gia đình lại tăng lên. ANZ dự báo lạm phát của Việt Nam năm nay sẽ chỉ ở mức 3%.

Với NSNN, trong khi phần thu NSNN từ dầu mỏ sẽ sụt giảm do giá dầu giảm nhưng phần ngân sách trợ cấp cho biến động của giá dầu nói riêng và chi tiêu nói chung cũng sẽ được giảm xuống. Nên xét về tổng thể thì các yếu tố này sẽ bù trừ cho nhau nên ảnh hưởng cũng không lớn.

Sự cân bằng cũng được thể hiện ở cán cân thương mại về dầu mỏ. Việt Nam vừa là nước xuất khẩu dầu thô vừa là nước nhập khẩu xăng dầu (dầu tinh chế). Trong năm 2014, Việt Nam xuất khẩu 9,2 triệu tấn dầu thô, trong khi nhập khẩu 8,4 triệu tấn xăng dầu, qua đó ghi nhận mức thặng dư nhỏ 95,7 triệu USD liên quan đến dầu mỏ. Về tỷ trọng, năm 2014, dầu thô chiếm chỉ 5,0% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm mạnh so với mức 10,8% trong năm 2009. Tương tự, nhập khẩu xăng dầu hiện chiếm 4,9% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, giảm so với mức 8,9% trong năm 2009.

“Chúng tôi lưu ý rằng, xuất khẩu dầu thô đã giảm đáng kể trong khi nhập khẩu dầu tinh chế cũng đã giảm khi nhà máy Dung Quất, nhà máy lọc dầu đầu tiên và đến nay là duy nhất của Việt Nam đi vào vận hành từ năm 2010” - bà Victorino nhấn mạnh. Như vậy, theo bà Victorino, dù trong những năm tới Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu dầu thô nhưng trong trung và dài hạn, tỷ trọng xuất khẩu sẽ ngày càng giảm và tăng khả năng tự chủ về cung dầu cho nền kinh tế.

Có nên tăng tích trữ dầu mỏ thời điểm này?

Trong 2 thập kỷ qua, tiêu thụ dầu của Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng với mức tăng bình quân 7,5%/năm. Mức tiêu thụ dầu của Việt Nam được các chuyên gia đánh giá là tăng nhanh nhất trong khu vực, vượt qua cả Trung Quốc. Nhà máy lọc dầu Dung Quất mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của Việt Nam và kể cả những năm tới đây, khi Việt Nam có đưa được vào những nhà máy lọc dầu mới thì vẫn không đủ phục vụ nhu cầu của nền kinh tế, tiêu dùng và đặc biệt là ngành sản xuất. “Nhìn vào con số FDI đổ vào Việt Nam trong các ngành sản xuất, chúng ta sẽ thấy tốc độ cao hơn rất nhiều so với cả giai đoạn 20 năm về trước” - Bà Victorino đưa ra dẫn chứng.

Nhu cầu lớn như vậy khiến xuất hiện nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam nên chăng tận dụng giá dầu giảm hiện nay để tăng nhập khẩu dầu mỏ dự trữ lên. Về vấn đề này, theo các chuyên gia của ANZ, việc tăng cường dự trữ chiến lược dầu mỏ là điều cũng nên làm khi giá dầu giảm bởi sẽ giúp tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, cũng cần nhìn theo xu hướng mang tính chu kỳ của giá dầu để có hành động phù hợp.

Theo các chuyên gia này, giá dầu hiện nay có thể nói đã lập một chu kỳ giá mới (ở mức thấp hơn) và sẽ kéo dài chứ khó tăng bùng phát trở lại. Do đó, không nên tăng dự trữ dầu một cách quá nhanh, quá mạnh và quá gấp gáp vì như vậy sẽ có thể đẩy giá dầu trong nước lên cao, đồng thời có thể gây ra những tác động tiêu cực đến cán cân thương mại nói chung.

“Với mặt bằng giá dầu mới thấp hơn, nếu dự trữ chúng ta cũng chỉ nên làm từ từ. Đồng thời, nên dành nguồn lực để đầu tư tăng cường các cơ sở lọc dầu để khai thác được hiệu quả nhất trữ lượng dầu mà Việt Nam có” – ông Glenn Maguire khuyến nghị.

Giá dầu thấp có thể khiến các nhà đầu tư vào lọc dầu ngần ngại. Tuy nhiên muốn tăng công suất lọc dầu trong tương lai để đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ lớn và ngày càng tăng thì phải đầu tư ngay từ bây giờ. Hơn thế nữa, ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam là ngành tích hợp từ thượng nguồn tới hạ nguồn nên cùng với lọc dầu, Việt Nam có cả năng lực khai thác và thu lợi nhiều từ khai thác. “Do đó, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ từ hoạt động khai thác dầu cho tăng cường năng lực lọc hóa dầu trong nước” – bà Victorino đề xuất.