Cần cái nhìn đa chiều, chính xác về tỷ lệ thuế, phí tại Việt Nam
Nhiều chuyên gia kinh tế và lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng cần có cái nhìn đa chiều, chính xác và phù hợp về tỷ lệ thuế, phí tại Việt Nam khi so sánh với các nước trong khu vực. Viện trưởng Viện CL&CS Tài chính Vũ Nhữ Thăng: “Chúng ta cần tiếp tục nỗ lực tạo môi trường bình đẳng, ổn định cho doanh nghiệp hoạt động cũng như thu hút đầu tư. Trong lộ trình cải cách thuế tới năm 2020 đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, sẽ thực hiện giảm dần mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Hiện Bộ Tài chính đang soạn thảo và dự kiến thời gian tới sẽ trình Chính phủ, trình Quốc hội sửa đổi một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2013”.
"Báo cáo Kinh tế vĩ mô thường niên năm 2012" trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ mô”, do Cơ quan Phát triển LHQ (UNDP) tài trợ và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì thực hiện, với sự hỗ trợ của Nhóm Tư vấn chính sách kinh tế vĩ mô (MAG) có đưa ra thông tin về tỷ lệ thuế, phí trên GDP của Việt Nam đang cao hơn từ 1,4 đến 3 lần so với các nước trong khu vực.
Tại phiên họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 8/2012 ngày 5/9, Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai đã khẳng định Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tỷ lệ huy động thuế, phí ở mức trung bình trên thế giới và bà Vũ Thị Mai đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể cho nhận định này.
Trao đổi với TBTCVN, ông Vũ Nhữ Thăng, Viện trưởng Viện Chiến lược tài chính cũng cho rằng, vấn đề này cần được nhìn nhận đa chiều và để so sánh một cách chính xác, phù hợp, các nguồn số liệu đưa ra cần phải tính trên một mặt bằng.
Cụ thể, theo số liệu của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) năm 2011, một số quốc gia như Ấn Độ, Thái Lan, Philppines, chỉ lấy nguồn từ chính quyền trung ương, chứ không lấy tổng thu của cả 4 cấp ngân sách như Việt Nam, để tính tỷ lệ động viên vào ngân sách.
Theo nguồn của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) năm 2010, tỷ lệ động viên trung bình từ thuế của các nước là 28,7%, trong đó các nước có điều kiện tương đương Việt Nam (có thu nhập trung bình thấp) có tỷ lệ là 26,4%. Tỷ lệ hiện nay ở Việt Nam là 26,7%.
Ngoài ra, các số liệu được dùng để tính tỷ lệ này chỉ tính nguồn thu từ thuế và phí, chứ không tính tổng nguồn thu. Trong khi đó, tổng thu ngân sách của Việt Nam còn có khoản thu từ dầu thô, từ sử dụng đất, từ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, trong đó thu từ dầu thô đang được xếp vào nhóm thu từ thuế, phí.
Nếu trừ đi các khoản này, tỷ lệ thu của Việt Nam không hề các cao so với khu vực. Theo số liệu từ năm 2006-2010, nếu trừ đi cả khoản thu từ dầu thô, tiền nhà, đất và viện trợ, thì tỷ lệ huy động ngân sách nhà nước vào khoảng 20% GDP. Nếu chỉ tính thu nội địa, tức là không bao gồm thu từ hoạt động ngoại thương (trừ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu), tỷ lệ huy động ngân sách nhà nước từ thuế, phí trên GDP chỉ khoảng 14%.
Theo bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam, nếu lấy số thực thu trừ đi số thu về đất và dầu thô thì tỷ lệ động viên trong giai đoạn 2006-2010 chỉ có 14%, có giai đoạn chỉ 12%. Nếu tỉnh cả số thu về đất và dầu thô để so sánh với các nước thì đó là sự so sánh khập khiễng.
Còn theo bà Hà Thu Thanh, Tổng giám đốc Deloitte tại Việt Nam - thành viên của hãng kiểm toán và tư vấn hàng đầu trên thế giới – số thuế của các doanh nghiệp phải nộp trong nhiều năm qua đã được giảm đi tương đối trong lộ trình cải cách thuế của Việt Nam. Trong 10 năm qua, đầu tư ở Việt Nam đã tăng khá mạnh và ngoài các yếu tố chính trị ổn định, nhân công rẻ, một yếu tố được các nhà đầu tư cân nhắc là chi phí thuế ở một mức độ hợp lý.
Ông Habbib Rab, chuyên gia kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới cũng cho biết, nếu tính một cách xác thực, tỷ lệ thuế và phí của Việt Nam vào khoảng 20% GDP, là mức thông thường. Điều này có thể so sánh với các quốc gia trong khu vực, hiện một số quốc gia có tỷ lệ thuế và phí lên tới 40% GDP.
Riêng về mức thuế thu nhập doanh nghiệp, ông Vũ Nhữ Thăng cho biết Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng giảm dần như các nước trong khu vực những năm gần đây. Từ năm 2003 đến nay, Quốc hội đã nhiều lần điều chỉnh mức thuế suất từ 32% xuống còn 28% và hiện nay là 25%. Trong khi đó, theo số liệu thống kê của Viện Chiến lược tài chính, mức thuế suất trung bình của 83 quốc gia năm 2011 là 27%. Theo ông Vũ Nhữ Thăng, mức thuế của Việt Nam là phù hợp với nhu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước những khó khăn hiện tại của nền kinh tế, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 13/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, trong đó có nhiều giải pháp về thuế, đồng thời Chính phủ đã kiến nghị Quốc hội ban hành một số giải pháp về thuế.
Về dài hạn, theo ông Vũ Nhữ Thăng, chúng ta cần tiếp tục nỗ lực tạo môi trường bình đẳng, ổn định cho doanh nghiệp hoạt động cũng như thu hút đầu tư. Trong lộ trình cải cách thuế tới năm 2020 đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, sẽ thực hiện giảm dần mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Hiện Bộ Tài chính đang soạn thảo và dự kiến thời gian tới sẽ trình Chính phủ, trình Quốc hội sửa đổi một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2013.