Từ “thận trọng, linh hoạt” sang “chủ động”
Kết thúc năm 2013, kinh tế thế giới tuy có những dấu hiệu tích cực nhưng mức tăng trưởng vẫn thấp hơn so với năm 2012. Thị trường tài chính toàn cầu diễn biến tương đối ổn định, lãi suất liên ngân hàng có xu hướng giảm mạnh, nhiều nước tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong điều kiện lạm phát ở mức thấp.
Ở Việt Nam, kinh tế vĩ mô diễn biến theo đúng xu hướng kỳ vọng của các giải pháp điều hành Chính phủ đề ra từ đầu năm. Lạm phát được kiểm soát ở mức 6,04% thấp hơn so với năm 2012 (6,81%). Tăng trưởng kinh tế quý sau cao hơn quý trước, tuy nhiên trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới, GDP năm 2013 chỉ tăng 5,42%, cao hơn mức 5,25% của năm 2012 nhưng thấp hơn so với mục tiêu 5,5% đặt ra. Tổng cầu và sức mua của nền kinh tế còn yếu, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, lạm phát tuy đã được kiểm soát nhưng tiềm ẩn nguy cơ gia tăng trở lại.
Trước tình hình đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 2/1/2014, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 13/2/2012 đặt mục tiêu, nhiệm vụ “điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng (TCTD) và nền kinh tế”. Như vậy, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là những mục tiêu được quan tâm hàng đầu bên cạnh việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, thậm chí mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô còn được quan tâm và đặt lên vị trí có phần ưu tiên hơn so với năm 2013. Đây là một định hướng đúng đắn khi vấn đề kinh tế căn bản của Việt Nam trong những năm gần đây xoay quanh hai vấn đề chính là duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và kiến tạo đà tăng trưởng kinh tế trong trung hạn.
Sự hy sinh tăng trưởng trong ngắn hạn là cần thiết để tái cơ cấu nền kinh tế thành công và tạo được đà tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn. Cùng với tinh thần đó, trong điều kiện áp lực lạm phát đã có sự suy giảm, chính sách tiền tệ đã chuyển từ việc điều hành một cách “thận trọng, linh hoạt” sang “chủ động, linh hoạt”. Định hướng điều hành chính sách tiền tệ năm 2014 được điều chỉnh có dấu hiệu nới lỏng hơn so với năm trước thông qua các chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn hẳn so với năm 2013 khoảng 2%. Có thể thấy, định hướng chính sách tiền tệ đã được xác định một cách có cơ sở khoa học, phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu của nền kinh tế. Chính vì vậy, chính sách tiền tệ đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Đó là, năm 2014 lạm phát giảm so với năm 2013 và là mức thấp nhất trong hơn một thập kỷ. Tốc độ tăng giá tiêu dùng (tính theo năm) đã trượt về ngưỡng 2%, tính đến cuối năm 2014 CPI tăng khoảng 1,84%, (xem hình 1). Kết quả này một phần là nhờ vào các yếu tố gây sức ép lên lạm phát từ phía tổng cung, tổng cầu đã giảm so với các giai đoạn trước nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò của NHNN trong việc chủ động kiểm soát khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế.
Những diễn biến thuận lợi trong cán cân thanh toán và tác động tích cực của các chính sách chống đô la hóa, cung ngoại tệ trong nền kinh tế đã vượt xa cầu ngoại tệ. Để duy trì mục tiêu giữ ổn định tỷ giá, ổn định thị trường tiền tệ, NHNN đã đưa một lượng lớn tiền ra để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối, đưa dự trữ ngoại hối lên mức kỷ lục vào khoảng 35 tỷ USD từ cuối quý II/2014. Do vậy, song song với động thái gia tăng dự trữ ngoại hối, nâng cao khả năng bình ổn thị trường ngoại tệ và tránh tạo ra áp lực gia tăng lạm phát, NHNN cũng đã kịp thời rút bớt tiền về thông qua hoạt động phát hành tín phiếu NHNN trong suốt giai đoạn này. Tính từ đầu năm đến nay, giá trị tín phiếu phát hành chiếm tỷ trọng 89% và giá trị cho vay qua mua giấy tờ có giá chiếm 11% tổng khối lượng mà NHNN can thiệp vào thị trường tiền tệ. Tỷ lệ này trong cùng kỳ năm 2013 tương ứng ở mức 60% và 40% và trong cùng kỳ năm 2012 ở mức 21% và 79%.
Bên cạnh việc sử dụng hiệu quả nghiệp vụ phát hành tín phiếu để điều tiết thanh khoản thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát; công cụ lãi suất cũng được NHNN điều hành hiệu quả để điều tiết thanh khoản, hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy sản suất, tăng trưởng kinh tế, trong khi vẫn theo sát diễn biến lạm phát và đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, trong năm 2014, NHNN đã phối hợp điều hành, hài hòa lãi suất theo cả hai biện pháp gián tiếp và trực tiếp trên cơ sở thống nhất nguyên tắc đảm bảo lãi suất thực dương và đảm bảo lợi ích của người gửi tiền.
Thứ nhất, trên cơ sở dự báo lạm phát tiếp tục có xu hướng giảm, do tác động của các biện pháp chính sách tiền tệ và xu hướng giảm giá các mặt hàng thiết yếu trên thị trường quốc tế, các mức lãi suất điều hành của NHNN đã được xác định và điều chỉnh phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo duy trì trật tự thị trường tiền tệ. Ngày 18/3/2014, NHNN đã điều chỉnh giảm đồng loạt lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu từ mức 7% và 5% của năm 2013 xuống còn 6,5% và 4,5% trong khi trần lãi suất tiền gửi bằng tiền đồng được điều chỉnh giảm từ 7% xuống 6% và tiếp tục giảm xuống còn 5,5% vào ngày 29/10/2014 (xem hình 2). Ngoài bảo đảm lãi suất thực dương, với khoảng cách giữa các lãi suất điều hành trên, NHNN chủ động sử dụng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu để hỗ trợ các ngân hàng thương mại (NHTM) cho vay vào các lĩnh vực mà Chính phủ ưu tiên với mức lãi suất giảm xuống 0,5% - 1% so với mức lãi suất phổ biến của thị trường. Đồng thời, NHNN còn quy định trần lãi suất cho vay bằng tiền đồng là 8% từ ngày 18/3/2014 và giảm xuống còn 7% từ ngày 29/10/2014 đối với 5 lĩnh vực ưu tiên. Việc sử dụng biện pháp trực tiếp này đã hướng dòng vốn tín dụng vào khu vực kinh tế mà Việt Nam có lợi thế so sánh.
Thứ hai, với biện pháp gián tiếp, thông qua hệ thống lãi suất điều hành và hoạt động mua bán kỳ hạn giấy tờ có giá, NHNN điều tiết lãi suất và hỗ trợ thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng và qua đó tác động tới lãi suất dòng vốn ra nền kinh tế bên cạnh việc tạo ổn định trên thị trường nội tệ. Trong điều kiện thanh khoản tương đối dồi dào, diễn biến thị trường liên ngân hàng trong hầu hết cả năm 2014 diễn ra khá ổn định với mức lãi suất thấp và ít biến động hơn so với năm 2013. Trong những thời điểm thị trường có biến động, NHNN đã chủ động cung ứng thanh khoản cho các NHTM thông qua nghiệp vụ mua bán kỳ hạn giấy tờ có giá. Nhờ vậy, lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn dù có lúc biến động nhưng cũng chỉ mang tính thời điểm và luôn thấp hơn mức lãi suất tái cấp vốn và lãi suất OMO của NHNN, thị trường nội tệ được duy trì ổn định, thông suốt.
Lãi suất của các khoản vay cũ tiếp tục được các tổ chức tín dụng giảm mạnh. Đến tháng 12/2014, dư nợ cho vay có lãi suất trên 15% chiếm 3,9% tổng dư nợ cho vay, giảm so với tỷ trọng 6,3% cuối năm 2013, dư nợ có lãi suất trên 13%/năm chiếm 11,7% tổng dư nợ cho vay, giảm so với tỷ trọng 19,72% cuối năm 2013.
Đồng thời với việc điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, điều hành duy trì ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối cũng đã được phối hợp nhuần nhuyễn, đóng góp tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, không tạo cú sốc bất lợi đến ổn định kinh tế vĩ mô. Trong điều hành chính sách tiền tệ, với biện pháp trực tiếp, cụ thể là quy định trần lãi suất tiền gửi VND và USD, trong đó, duy trì khoảng cách đáng kể giữa lãi suất tiền đồng cao hơn lãi suất USD 4-5%, NHNN đã khuyến khích người dân nắm giữ tiền đồng phục vụ chiến lược chống đô la hóa, bảo đảm ổn định về tỷ giá và thị trường ngoại tệ, thị trường vàng.
Ngay từ đầu năm 2014, NHNN đã có chủ trương giữ ổn định tỷ giá và nếu phải điều chỉnh sẽ không quá 2%. Thực hiện cam kết đó, khi tỷ giá trên thị trường biến động do những nguyên nhân khách quan tác động đến tâm lý thị trường, chẳng hạn như tình hình biển Đông diễn ra vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 trên thị trường lại xuất hiện kỳ vọng sẽ điều chỉnh tỷ giá. Trước tình hình này, trong bối cảnh lạm phát đang được kiểm soát ở mức thấp, NHNN đã chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá để can thiệp và bình ổn thị trường ngoại tệ, đồng thời góp phần hỗ trợ xuất khẩu trong 6 tháng cuối năm, qua đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu đề ra. Sau khi điều chỉnh tăng 1% tỷ giá bình quân thị trường liên ngân hàng vào ngày 19/6/2014, tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại dần ổn định ở mặt bằng mới. Tính đến 12/12/2014, tỷ giá VND/USD liên ngân hàng là 21.126 đồng, không thay đổi kể từ ngày 19/6/2014, thấp hơn 0,6% so với trần tỷ giá. Thanh khoản thị trường ngoại hối khá tốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức và cá nhân đều được TCTD đáp ứng đầy đủ, kịp thời.
Bên cạnh đó, diễn biến thị trường vàng tương đối ổn định, giá vàng trong nước dao động phù hợp với giá vàng trên thị trường quốc tế xoay quanh mức 36 triệu đồng/lượng và có xu hướng giảm tới mốc 35 triệu đồng/lượng. NHNN không phải tổ chức đấu thầu bán vàng miếng, nhờ đó hạn chế việc sử dụng ngoại tệ của Quỹ Bình ổn tỷ giá và giá vàng để nhập khẩu vàng quốc tế. Điều này, góp phần duy trì sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối, tạo thuận lợi cho việc thu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Những kết quả trên cho thấy trong năm vừa qua, NHNN đã thực hiện đồng bộ các giải pháp theo đúng chỉ đạo của Chính phủ và Nghị quyết của Quốc hội, giảm được mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định được tỷ giá, đảm bảo thanh khoản của hệ thống các TCTD, góp phần kiểm soát lạm phát, tháo gỡ một bước khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý.
Vấn đề đặt ra cho năm 2015
Tình hình kinh tế trong và ngoài nước dự báo sẽ còn nhiều khó khăn, giới chuyên gia nhận định rằng, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong năm tới sẽ còn phải đối mặt với nhiều thách thức:
Thứ nhất, trong năm 2015, kinh tế thế giới tiếp tục xu hướng phục hồi nhưng còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường do tác động của tình hình chính trị, biến đổi khí hậu.. Với độ mở cửa lớn, những diễn biến kinh tế, chính trị thế giới sẽ có tác động đan xen thách thức và cơ hội đến nền kinh tế nước ta nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng.
Thứ hai, trong nước với những kết quả tích cực trong diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ năm 2014 là điều kiện thuận lợi để kinh tế Việt Nam tiếp tục khởi sắc. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, chất lượng tăng trưởng, hiệu suất, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp, hiệu quả hoạt động của nền kinh tế vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước diễn ra còn chậm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Nợ xấu của hệ thống TCTD đã được tích cực xử lý trong thời gian qua nhưng vẫn còn ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống ngân hàng và luân chuyển vốn trong nền kinh tế. Tình hình này, đòi hỏi chính sách tiền tệ vẫn phải hết sức chú trọng đảm bảo an toàn kinh tế vĩ mô bên cạnh việc tạo dòng vốn thông suốt trong nền kinh tế cũng như phải thực hiện đồng bộ các giải pháp chính sách vĩ mô khác để xử lý nợ xấu một cách căn bản.
Thứ ba, thâm hụt ngân sách được mở rộng lên 5,3% GDP và khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành tăng lên có thể tạo áp lực đối với việc điều hành chính sách sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Việc tăng cường nắm giữ trái phiếu chính phủ một mặt giúp các TCTD tăng dự trữ thanh khoản nhưng cũng có thể phát sinh khó khăn nếu các TCTD không chủ động trong việc cân đối vốn theo kỳ hạn hợp lý.
Thứ tư, lãi suất giảm nhanh có thể làm đảo chiều các dòng vốn đang tận dụng lãi suất cao trong nước. Tuy nhiên, đây không phải là nguy cơ quá lớn khi môi trường kinh doanh ở Việt Nam năm 2014 đã được quốc tế nhìn nhận và đánh giá khá lạc quan, biểu hiện rõ ràng nhất là việc Bộ Tài chính đã phát hành thành công trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ra thị trường vốn quốc tế với tổng khối lượng 1 tỷ USD với mức lãi suất cố định 4,8%/năm, thấp hơn mức dự kiến là 5,125%/năm và là mức lãi suất thấp nhất trong các đợt phát hành từ trước đến nay (lãi suất trái phiếu phát hành năm 2005 và 2010 lần lượt là 7,15%/năm và 6,755%/năm).
Thứ năm, tỷ giá được NHNN điều hành một cách linh hoạt, chủ động cùng với sự gia tăng của dự trữ ngoại hối từ 6 tuần nhập khẩu vào cuối năm 2010 lên 6,5 tuần vào cuối năm 2011 rồi lên 12 tuần cuối năm 2012 và 2013 đã tạo điều kiện duy trì ổn định thị trường ngoại hối trong thời gian dài. Tuy nhiên, tỷ giá là một biến số vĩ mô chịu tác động từ nhiều yếu tố bên ngoài yếu tố tiền tệ như hoạt động thương mại, chính sách tài khóa…. Do vậy, khi yếu tố tâm lý vẫn có tác động lớn đến tỷ giá, hoạt động điều hành tỷ giá và ổn định thị trường ngoại hối của NHNN sẽ có thể chịu nhiều áp lực trước các biến động của thị trường trong và ngoài nước và đòi hỏi cần có sự chia sẻ, phối hợp tích cực, chặt chẽ từ các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô.
Như vậy, trước áp lực trên, để đạt được mục tiêu lạm phát 5% của năm 2015 - tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, đồng thời tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và góp phần tăng trưởng kinh tế đạt mức 6,5% do Quốc hội đề ra, chính sách tiền tệ cần tiếp tục được điều hành chủ động, linh hoạt, phối hợp đồng bộ trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ; phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, nhất là chính sách tài khóa để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng không ảnh hưởng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, để thúc đẩy tăng trưởng bền vững, thực sự tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ngoài các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ, cần triển khai quyết liệt các biện pháp tái cơ cấu doanh nghiệp từ các bộ, ngành và địa phương.
Chính sách tiền tệ năm 2014 và những vấn đề đặt ra trong năm 2015
(Tài chính) Khép lại năm 2014, chính sách tiền tệ đã về đích với nhiều điểm sáng đáng ghi nhận. Tuy nhiên, để thúc đẩy tăng trưởng bền vững, thực sự tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh trong năm 2015, điều hành chính sách tiền tệ sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, nhất là với chính sách tài khóa để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế vĩ mô, thực hiện tốt mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Xem thêm