Theo số liệu thống kê, từ năm 1993 đến nay, số vốn ODA của các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam năm sau luôn cao hơn năm trước. Đến nay, cho thấy sự tin tưởng, đồng tình và ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc đổi mới và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Hơn nữa, các nhà tài trợ quốc tế đánh giá rất cao về môi trường phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đang ngày một hấp dẫn, thông thoáng với những tiêu chí của một nền kinh tế thị trường.

Tuy nhiên, qua 20 năm thực hiện tiếp nhận nguồn vốn ODA đang nổi lên một hạn chế lớn, đó là: tỷ lệ giải ngân còn chậm nên chưa phát huy được hiệu quả tốt nhất lợi thế mà nguồn vốn ODA có được, đồng thời tỷ lệ nợ quá hạn ngày một tăng (khoảng 0,42% dự nợ vay), gây gánh nặng lớn cho ngân sách nhà nước... Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng sử dụng không hiệu quả là do cơ chế quản lý cơ chế tài chính trong nước chưa đồng bộ, chưa đáp ứng đủ và đúng tiến độ để thực hiện dự án theo kế hoạch.

Những nội dung chủ yếu của quản lý cơ chế tài chính trong nước đối với các dự án ODA là cơ chế quản lý ngân sách,vốn đối ứng, cơ chế cho vay lại (lãi suất, trả nợ và thời gian trả nợ), thủ tục rút vốn, thuế đối với các dự án ODA..... Cơ chế này cần được xác định rõ ràng thì các chủ thể dự án mới có thể chủ động tính toán hiệu quả tài chính của dự án, nhất là các dự án ODA vốn vay.

Trong giải pháp về cơ chế quản lý tài chính vốn ODA cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về phân bổ vốn đối ứng, xác định lãi suất vay lại, đơn giản hoá thủ tục rút vốn, chính sách thuế cũng như điều chỉnh lại cơ cấu chi của vốn ODA. Cụ thể như sau:

Kịp thời phân bổ vốn đối ứng

Vốn đối ứng tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng rất quan trọng để hấp thụ nguồn vốn nước ngoài. Vì vậy, việc phân bổ nguồn vốn này nên linh hoạt hơn so với các nguồn vốn trong nước. Để đáp ứng kịp thời về vốn đối ứng nên cho phép các Bộ, địa phương chủ quản có nhiều quyền hạn hơn trong việc điều chuyển vốn đối ứng giữa các dự án thuộc quyền quản lý và thông báo cho các cơ quan tài chính, kho bạc cấp vốn theo đúng tiến độ.

Các bộ liên quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cần ưu tiên bố trí đầy đủ, kịp thời vốn đối ứng cho các dự án ODA, nguồn vốn này nhiều khi vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cho hoạt động của dự án. Để làm được điều này cần xem xét kỹ, có những tính toán cụ thể, đảm bảo tin cậy trong kế hoạch vốn nước ngoài để sát với khả năng thực hiện khối lượng công việc, tránh các chênh lệch lớn, không đủ vốn đối ứng để thanh toán.

Ngân sách nhà nước nên có một nguồn dự phòng dành riêng cho các dự án ODA. Nguồn dự phòng này sẽ được sử dụng trong các trường hợp bổ sung kế hoạch vốn đối ứng cho các dự án có hiệu lực sau kỳ lập kế hoạch, các dự án thiếu vốn đối ứng để nộp thuế, hỗ trợ địa phương không đủ vốn đối ứng.... Vốn đối ứng cần được giao theo đúng địa chỉ của từng chương trình, dự án ODA cụ thể, không được bố trí tuỳ tiện cho các mục tiêu khác.

Xác định lãi suất cho vay lại của các khoản vốn ODA

Vốn ODA do Chính phủ trực tiếp vay và trả nợ. Hiện nay, Bộ Tài chính là cơ quan được Chính phủ uỷ quyền thực hiện chức năng nói trên. Lãi suất cho vay lại là một công cụ điều phối quản lý và sử dụng vốn ODA cho vay lại với lãi suất cao hơn, thời gian ngắn hơn nhằm đem lại một nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời Nhà nước cũng thực hiện được nhiệm vụ tham gia điều phối trực tiếp nguồn vốn ODA.

Các nhà tài trợ cũng khuyến khích hoặc yêu cầu Chính phủ Việt Nam thực hiện cơ chế cho vay lại bởi vì sự ưu đãi của ODA dành cho toàn thể nhân dân chứ không phải cho những doanh nghiệp cụ thể. Chính phủ cần sớm ban hành quy chế cho vay lại vốn ODA trong đó xác định rõ ngành, vùng, lĩnh vực ưu tiên, lãi suất cho vay lại đối với từng ngành, vùng, lĩnh vực. Tính đúng lãi suất cho vay lại vừa bảo đảm sự công bằng về lợi ích kinh tế, sự bình đẳng trong cạnh tranh, khuyến khích tính tích cực, năng động của các ngành, các cấp, cơ sở trong khai thác vốn ODA. Vì vậy, việc cho vay lại nguồn vốn ODA phải dựa trên cơ sở các nguyên tắc:

- Vốn ODA cho vay lại phải được đầu tư đúng mục đích sử dụng và bảo đảm thực hiện đúng các ưu đãi hỗ trợ phát triển nguồn vốn này. Các thỏa thuận về các điều kiện vay, kể cả các ưu đãi được ghi trong các hiệp định vay về cơ bản phải đảm bảo cho các đối tượng sử dụng vốn ODA thụ hưởng, không dành những ưu đãi này cho các đối tượng khác.

- Thực hiện vay và hoàn trả vốn gốc và lãi đúng hạn theo các hiệp định đã ký kết với các nhà tài trợ.

- Lãi suất cho vay lại cho các dự án thuộc cùng một ngành, một lĩnh vực và ở một vùng phải đảm bảo cùng một mức lợi ích, bất kể là nguồn tài trợ nào.

- Thống nhất dùng một đồng tiền quốc tế ổn định làm phương tiện thanh toán giữa Nhà nước và đơn vị được vay vốn ODA.

- Lãi suất vay lại được xác định cao như lãi suất thị trường.

Đối với các khoản vốn ODA cho các doanh nghiệp đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất thì các doanh nghiệp luôn muốn vay với lãi suất thấp còn cơ quan quản lý của Chính phủ thì lại muốn cho vay với lãi suất cao để gắn trách nhiệm của họ trong quá trình trả nợ. Các doanh nghiệp vay vốn ODA đều là các doanh nghiệp nhà nước, đã được hưởng rất nhiều các ưu đãi từ phía Nhà nước. Khi các doanh nghiệp vay vốn ODA thì họ đã được hưởng ưu đãi của nguồn vốn này về thời gian vay và ân hạn, thường là 20-30 năm. Vì vậy, giải pháp cho việc xác định lãi suất cho vay lại cần xác định ở mức cao như lãi suất thị trường nhằm gắn trách nhiệm của các doanh nghiệp vay lại với việc trả nợ và tạo nguồn thu nhất định cho ngân sách nhà nước. Điều này cũng hỗ trợ cho Nhà nước hoàn trả được gốc và lãi phần vốn ODA dùng cho hỗ trợ ngân sách.

Đơn giản hoá thủ tục rút vốn

Chính phủ Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc đơn giản hóa thủ tục rút vốn nhưng vấn đề này lại phụ thuộc nhiều vào các nhà tài trợ. Mỗi nhà tài trợ đưa ra một quy định rút vốn riêng cho chương trình, dự án ODA của mình. Vì vậy, cần đạt tới sự hài hòa thủ tục rút vốn của Việt Nam và quy định của các nhà tài trợ.

Nhà nước cần có chính sách thuế phù hợp, áp dụng thống nhất cho các dự án ODA

Đây là một vấn đề rất phức tạp trong thực hiện dự án. Vì vậy, cần thường xuyên tổ chức các hội thảo chuyên đề về thuế do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì có sự tham gia của Tổng cục Thuế nhằm hướng dẫn cho các bên liên quan. Nhà nước cần có chính sách thuế áp dụng thống nhất cho các dự án ODA. Các dự án có quy mô tương tự nhau được triển khai trong những điều kiện và cùng một lĩnh vực phải được hưởng cùng một chính sách thuế.

Điều chỉnh lại cơ cấu chi của nguồn vốn ODA

Giảm tỷ lệ vốn ODA chi cho ngân sách nhà nước. Hiện nay, tỷ lệ này là 37,7%, chi cho các lĩnh vực mở rộng và nâng cấp đường xá. Để giảm bớt tỷ lệ vốn ODA cho các các lĩnh vực này, Chính phủ có thể kêu gọi sự đầu tư của nhân dân, của các doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua hình thức BOT.

Tăng tỷ lệ cho vay lại đối với các doanh nghiệp. Hiện nay tỷ lệ vốn ODA cho các doanh nghiệp vay lại trung bình đạt khoảng 57%. Việc tăng tỷ lệ cho vay lại của vốn ODA thể hiện rõ đây là nguồn vốn có vay có trả. Các dự án sử dụng vốn ODA phải đảm bảo tính khả thi để thu hồi cả vốn lẫn lãi, loại bỏ tư tưởng xin - cho hoặc Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp.

Đổi mới công tác quản lý cơ chế tài chính đối với các dự án ODA

ThS. ĐẶNG VŨ HÙNG - Ngân hàng Phát triển Việt Nam

(Tài chính) Cùng với các nguồn lực trong tài chính trong nước, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) luôn đóng vai trò quan trọng trên các lĩnh vực, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên, để tăng cường thu hút nguồn vốn ODA và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này, cần nâng cao hơn nữa công tác quản lý, đổi mới cơ chế tài chính trong lĩnh vực này.

Xem thêm

Video nổi bật