Để hoàn thành chức năng nhiệm vụ của mình, ngành Hải quan đã phải áp dụng các biện pháp nghiệp vụ mới như: Nghiệp vụ quản lý rủi ro, khai báo hải quan điện tử và kiểm tra sau thông quan.
Nếu áp dụng nghiệp vụ quản lý rủi ro và khai báo hải quan điện tử góp phần tích cực tạo điều kiện thuân lợi và rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa cho các doanh nghiệp (DN) thì kiểm tra sau thông quan lại duy trì chức năng chống gian lận thương mại và tình trạng trốn lậu thuế một cách uyển chuyển, không tạo ra ách tắc cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong quá trình tiến hành kiểm tra sau thông quan, cán bộ Hải quan có thể phải kiểm tra các nhóm chứng từ sau: chứng từ thương mại, chứng từ ngân hàng, chứng từ sổ kế toán và báo cáo tài chính.
Kiểm tra chứng từ thương mại
Các chứng từ thương mại được tạo lập trên cơ sở tuân thủ các thông lệ thương mại, các công ước quốc tế có liên quan, chẳng hạn như: Quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ; Quy tắc thống nhất về nhờ thu; Các điều kiện thương mại quốc tế của Phòng thương mại quốc tế (ICC); Các nghị định thư và các công ước quốc tế về vận tải biển như: Hague convention 1955/ Hamburg Protocol 1978/ Wasaw 1929/ Brussels 1957, Công ước quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế... Những cán bộ kiểm tra sau thông quan có kinh nghiệm và nắm chắc các thông lệ thương mại quốc tế có thể nhanh chóng kết luận được trị giá thực tế của lô hàng và/hoặc xác định chứng từ thương mại mà mình đang kiểm tra là thật hay giả.
Tuy nhiên, cũng cần ghi nhận những “yếu điểm chết người” của chứng từ thương mại là người ta có thể ngụy tạo (làm giả) chứng từ mà các chuyên gia quốc tế cũng khó phát hiện. Cũng cần nói thêm rằng số tiền ghi trên chứng từ thương mại là số tiền có thể chuyển tức là số tiền đó có thể trả bằng cách trả ngay, đã tạm ứng, trả chậm hoặc có thể đổi hàng có giá trị tương đương...
Vì những đặc điểm này đối với nghiệp vụ Kiểm tra sau thông quan, chứng từ thương mại chủ yếu được sử dụng trong khâu xác định bản chất chủng loại hàng hóa (áp mã HS) hoặc xác định số lượng hàng hóa.
Các trường hợp kiểm tra xác định trị giá hải quan (để tính thuế) kiểm tra xét đoán chứng từ thương mại chỉ có thể phát hiện các trường hợp gian lận ở “trình độ thấp” hoặc chỉ được coi là một kênh thông tin tham chiếu cho các bước kiểm tra tiếp theo.
Kiểm tra chứng từ ngân hàng
Điều 7 Pháp lệnh Ngoại hối 28/2005 PL-UBTVQH11, ngày 13/12/2005 quy định: Mọi thanh toán chuyển tiền liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa dịch vụ phải thực hiện thông qua tổ chức tín dụng được phép. Quy định của Pháp lệnh ngoại hối 2005 cũng phù hợp với quy định về quản lý ngoại hối của hầu hết các nước trên thế giới.
Theo các quy định quản lý ngoại hối như trên thì kiểm tra xét đoán chứng từ ngân hàng người ta có thể xác định được số tiền thực tế đã thanh toán cho các lô hàng xuất nhập khẩu.
Kiểm tra xét đoán chứng từ ngân hàng cần chú ý một số đặc điểm sau:
+ Hầu hết các chứng từ ngân hàng chỉ ghi nhận số tiền thực tế đã chuyển qua ngân hàng, tức là đã trả, các khoản tiền thanh toán sau thời điểm kiểm tra (nếu có) sẽ không được thể hiện trên các chứng từ ngân hàng. Trên thực tế, doang nghiệp (DN) có thể nhập khẩu hàng theo hình thức thanh toán chậm (toàn bộ hay một phần) đã bán những hàng hóa đó và đã thu tiền nhưng chưa trả tiền cho người bán thì vẫn không có chứng từ trả tiền qua ngân hàng.
+ Người nhập khẩu có thể đồng thời huy động tiền gửi của mình từ các ngân hàng khác nhau, thanh toán vào các thời điểm khác nhau và/hoặc áp dụng các phương thức thanh toán khác nhau (TT, L/C...) để cùng thanh toán cho một lô hàng nhưng chỉ khai báo với hải quan số tiền của 1 lần thanh toán từ một ngân hàng.
Kiểm tra chứng từ sổ kế toán và báo cáo tài chính
Như đã trình bày ở phần trên, chứng từ thương mại chỉ ghi nhận số tiền có thể chuyển nhưng tại thời điểm phát hành chứng từ, số tiền ghi trên chứng từ chưa chuyển. Chứng từ ngân hàng chỉ ghi nhận số tiền đã thanh toán qua ngân hàng tức là thực tế đã trả. Trong khi đó, theo quy định của Hiệp định trị giá GATT 1994, trị giá hải quan cũng chính là trị giá tính thuế của lô hàng được xác định trên cơ sở số tiền thực tế đã trả hay sẽ phải trả cho lô hàng đó.
Vì những lý do thực tế trên đây nên các chứng từ thương mại ngân hàng mặc dù rất hữu ích nhưng chưa hội tụ đầy đủ các thông tin cần thiết đủ tin cậy để xác định trị giá tính thuế của lô hàng. Nói cách khác, các cuộc kiểm tra sau thông quan nhằm kiểm tra xác định trị giá tính thuế của hàng hóa xuất nhập khẩu không thể chỉ căn cứ vào các chứng từ thương mại ngân hàng.
Khác biệt với các chứng từ thương mại ngân hàng, sau khi hàng hóa xuất nhập khẩu đã được thông quan thì chứng từ và sổ kế toán phải ghi nhận đầy đủ các khoản tiền thực tế mà người nhập khẩu đã trả hay sẽ phải trả cho lô hàng. Nói một cách khác là: kiểm tra chứng từ và sổ kế toán cán bộ kiểm tra sau thông quan có thể thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết để xác định số tiền mà người nhập khẩu thực tế đã trả hay sẽ phải trả cho lô hàng đó.
Cơ sở pháp lý: Luật Kế toán Việt Nam 2003 có những quy định rất cụ thể về chứng từ và sổ kế toán, có thể trích dẫn ra đây một số quy định trực tiếp:
+ Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến hoạt động của đơn vị kế toán đều phải lập chứng từ kế toán. Chứng từ kế toán chỉ được lập một lần cho mỗi nghiệp vụ kinh tế, tài chính (khoản 1 Điều 19).
+ Nghiêm cấm tình trạng để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán (khoản 3, Điều 14).
+ Sổ kế toán phải ghi kịp thời, rõ ràng, đầy đủ theo các nội dung của sổ. Thông tin, số liệu ghi vào sổ kế toán phải chính xác, trung thực, đúng với chứng từ kế toán (khoản 3, Điều 27).
Theo những quy định này các khoản chi trả cho nghiệp vụ nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài cũng như các khoản thu từ nghiệp vụ bán hàng xuất khẩu đều phải có chứng từ và được ghi vào sổ kế toán.
Cơ sở khoa học: Theo nguyên tắc đối ứng và nguyên tắc phù hợp của nghiệp vụ kế toán, khi hàng hóa nhập khẩu được thông quan và được nhập vào kho của DN kế toán phải ghi tăng hàng hóa đồng thời ghi giảm tiền (nếu thanh toán ngay) hoặc tăng nợ phải trả (nếu thanh toán chậm). Với nghiệp vụ xuất khẩu khi hàng hóa xuất kho kế toán phải ghi trị giá xuất kho đồng thời ghi giá vốn của hàng bán ra. Điều đó cũng có nghĩa là sau khi được phép thông quan (xuất hoặc nhập khẩu) ngành Hải quan có thể tiến hành kiểm tra sau thông quan vào bất cứ thời điểm nào tài liệu kế toán đều ghi nhận đầy đủ các thông tin cần thiết chính xác để kiểm tra xác định trị giá thực tế của lô hàng.
Cơ sở thực tiễn: Các khoản tiền thanh toán cho nghiệp vụ là các khoản chi thực tế hợp lý được cơ quan thuế chấp nhận trong quá trình xác định số thuế DN phải nộp. Vì vậy, người kinh doanh phải khai báo hết các chi phí thực tế để giảm thiểu số thuế phải nộp. Không có bất cứ người kinh doanh hoặc DN nào chấp nhận nộp thuế nhiều hơn mức thuế thực tế phải nộp. Trên thực tế, không ít DN cố ý khai báo chi phí cao hơn thực tế để giảm thiểu số thuế phải nộp nhưng không có người nộp thuế nào cố ý “bỏ quên” các khoản chi phí mà mình đã thực chi. Thực tế này cho thấy mọi chi phí mua hàng nhập khẩu đều được phản ánh trong sổ kế toán, tuy nhiên, vì lợi ích cục bộ của mình các chi phí có thể được ngụy trang theo các hình thức khác nhau. Kiểm tra phân tích và phát hiện được các chi phí cấu thành trị giá hải quan đang bị “ẩn giấu” trong sổ kế toán luôn luôn là yêu cầu trực tiếp đối với mọi cán bộ kiểm tra sau thông quan.
Từ những phân tích trên đây ta có thể đi đến kết luận: Kiểm tra tài liệu kế toán hoàn toàn có thể giúp ta xác định được trị giá thực tế của các lô hàng xuất nhập khẩu từ đó ngăn chặn và phát hiện một cách có hiệu lực tình trạng trốn thuế qua giá.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 3 - 2013
Kiểm tra kế toán trong hoạt động xuất nhập khẩu
(Tài chính) Kiểm tra tài liệu kế toán có thể giúp xác định được trị giá thực tế của các lô hàng xuất nhập khẩu từ đó ngăn chặn và phát hiện một cách có hiệu lực tình trạng trốn thuế qua giá. Thực tế đã chứng minh rằng hiệu quả của công tác kiểm tra kế toán không chỉ dừng lại ở việc phát hiện gian lận trị giá tính thuế mà còn phát hiện tình trạng xuất khống, gian lận bản chất (mã HS) và số lượng hàng hóa...
Xem thêm