Kinh tế đang dần ổn định
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quý I/2014 đạt 4,94% so với cùng kỳ năm 2013, mặc dù cao hơn so với mức tăng 4,76% của cùng kỳ năm 2013 song vẫn thấp hơn cùng kỳ những năm 2010 và 2011. Với mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm (5,8%), thì đây là một thách thức rất lớn đặt ra trong những tháng còn lại của năm 2014, bởi tổng cầu của nền kinh tế hiện còn yếu: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tính chung 3 tháng đầu năm 2014 chỉ tăng 0,8%, mức thấp nhất trong 13 năm qua. CPI tăng thấp chính là một trong những yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế.
Trong tháng 3/2014, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước ước đạt 234,3 nghìn tỷ đồng, giảm 2,3% so với tháng trước và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Nếu loại trừ yếu tố giá, mức bán lẻ bình quân so với cùng kỳ năm trước tăng 6,2%, chưa bằng một nửa tốc độ tăng của giai đoạn 2006-2010 (trung bình tăng 15%). Bên cạnh đó, tiến độ thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn chậm so với kế hoạch cả năm và giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước; Tình hình sản xuất khó khăn, số doanh nghiệp (DN) giải thể vẫn lớn hơn số lượng DN thành lập mới. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 2 tháng đầu năm, cả nước có khoảng 10.900 DN được thành lập mới, tăng 13,1% về số DN và tăng 28,4% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2013, nhưng vẫn có khoảng 13.100 DN giải thể và ngừng hoạt động, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2013.
CPI tính chung trong 3 tháng so với cùng kỳ năm trước chỉ tăng 4,65%, ghi nhận mức tăng thấp nhất trong thời kỳ 2009 - 2013. Sức mua yếu vẫn là nguyên chính khiến CPI tăng chậm. Ngoài ra, việc Chính phủ kiểm soát chặt chẽ các yếu tố có thể gây áp lực lên lạm phát cũng góp phần không nhỏ đến chỉ số CPI tăng thấp. Cụ thể, Bộ Tài chính điều hành giá xăng dầu hết sức linh hoạt trong từng thời điểm cụ thể, cùng với đó là mặt bằng giá nhiều mặt hàng nhập khẩu giảm cũng giúp CPI trong nước tăng chậm.
Đến thời điểm này chưa xuất hiện nhân tố gây áp lực lạm phát. Nhịp độ tăng CPI có thể sẽ lặp lại như trong 2 năm trước. Theo đó, dự báo CPI sẽ tăng rất thấp, hoặc xen kẽ những tháng giảm và gần như thiểu phát từ tháng 3 đến tháng 7. Như vậy, cho đến khi tăng trưởng tín dụng chưa được cải thiện, kỳ vọng lạm phát vẫn tiếp tục duy trì mức tăng thấp là cơ sở để dự báo CPI năm 2014 có thể thấp hơn mục tiêu 7% mà Chính phủ đề ra, thậm chí ở mức dưới 6%.
Tính chung 3 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 33,3 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá, tăng 13,2%). Trong khi kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước đạt 32,3 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá, tăng 15,5%).
Áp lực bội chi ngân sách
Lũy kế chi quý I/2014 ước đạt 232.160 tỷ đồng, bằng 23,1% dự toán, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2013. Bội chi NSNN trong 3 tháng đầu năm lên tới 37.090 tỷ đồng, bằng 16,5% dự toán năm. Trong đó, chi đầu tư phát triển là 33.315 tỷ đồng, chi cho sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước ước tính ở mức 169.690 tỷ đồng. Trái với năm 2013 khi ngân sách thường xuyên có nguy cơ hụt thu, trong 2 tháng đầu năm nay thu ngân sách đạt gần 130.000 tỷ đồng, tăng 16,6% so với dự toán và tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, các nguồn thu nội địa, thu xuất nhập khẩu đều tăng khá hơn so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, bội chi ngân sách vẫn lớn do chi ngân sách tăng vượt tốc độ tăng thu ngân sách. Theo thống kê của Bộ Tài chính, trong tất cả các nguồn chi, không có một nguồn nào giảm so với cùng thời điểm năm 2013.
Tổng cân đối thu NSNN quý I/2014 ước đạt 195.070 tỷ đồng, bằng 24,9% dự toán. Trong đó, thu nội địa quý I đạt 133.680 tỷ đồng, bằng 24,8% dự toán; thu từ dầu thô quý I đạt 26.090 tỷ đồng, bằng 30,6% dự toán; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu lũy kế thu quý I đạt 52.550 tỷ đồng bằng 23,5% dự toán.
![]() |
Một điểm sáng đáng ghi nhận trên thị trường tài chính trong những tháng đầu năm 2014 là thị trường chứng khoán. Tháng 2/2014, thị trường chứng khoán duy trì đà tăng với thanh khoản bùng nổ. Kết thúc tháng 2, VN-Index đạt 586,48 điểm, tăng 5,4%, HNX-Index đạt 83,12 điểm, tăng gần 12% so với tháng trước. Đà tăng vẫn duy trì cho đến giữa tháng 3, tính đến hết ngày 14/3/2014, VN-Index lên sát mốc 600 điểm, tăng gần 18% so với đầu năm, HNX-Index thậm chí đã tăng trên 24% (cao hơn mức tăng 19% trong cả năm 2013). Nhóm cổ phiếu chứng khoán và bất động sản thay nhau dẫn dắt xu thế tăng điểm. Phiên kỷ lục ngày 20/02/2014 có gần 260 triệu cổ phiếu được giao dịch trên HSX với tổng giá trị lên tới 5.500 tỷ đồng. Nhà đầu tư nước ngoài vẫn mua ròng khối lượng lớn. Tổng khối lượng mua ròng trong tháng 2 đạt 50,79 triệu cổ phiếu, tương đương giá trị mua ròng là 1.207,67 tỷ đồng. Bất chấp hoạt động bán ra khá mạnh của nhà đầu tư nước ngoài từ đầu tháng 3, tính đến 13/3/2014 khối ngoại vẫn mua ròng trên 2.292 tỷ đồng.
Thị trường tiền tệ ổn định
Xu hướng hạ lãi suất huy động mở rộng
Huy động vốn đã tăng trở lại trong tháng 2 và tháng 3 sau khi giảm trong tháng 1/2014. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến ngày 13/3/2014, tổng phương tiện thanh toán toàn hệ thống tăng 2,96% so với cuối năm 2013. Huy động vốn tăng cao sau Tết, hiện đã tăng 1,92% so với cuối 2013, trong đó huy động VND tăng 2,23%, huy động ngoại tệ giảm 0,09%. Làn sóng hạ lãi suất huy động diễn ra khá nhanh trong tháng 2 khi nhiều ngân hàng đã hạ lãi suất các kỳ hạn ngắn từ 0,5-0,8% so với đầu năm. Sau đó không lâu lãi suất một số kỳ hạn dài cũng được điều chỉnh giảm từ 0,2-0,5% so với đầu năm. Áp lực giảm chi phí vốn gia tăng trong khi thanh khoản dồi dào là động cơ khiến các ngân hàng chủ động hạ lãi suất tiết kiệm.
Thị trường liên ngân hàng (LNH) chịu áp lực lớn khi nguồn vốn trong hệ thống dư thừa khá lớn. Ngoài lượng tiền được cung ra từ nghiệp vụ mua ngoại tệ của NHNN (trong gần 3 tháng đầu năm khoảng trên 4 tỷ USD – tương đương trên 82.000 tỷ đồng), tín phiếu NHNN đáo hạn cũng là một kênh nữa đưa tiền vào hệ thống ngân hàng. Áp lực lên thị trường còn lớn hơn nếu NHNN không tích cực phát hành tín phiếu để hút tiền về. Do nhu cầu vay mượn qua LNH thấp, lãi suất giao dịch VND trên thị trường LNH giảm về mức thấp kỷ lục, có thời điểm lãi suất giao dịch kỳ hạn chỉ còn 1,15%/năm; các kỳ hạn 2 tuần: 1,64 – 2,0%; 2 tuần: 2,1 – 2,4%; 1 tháng: 3,3 – 3,5%. Sang tháng 3/2014, lãi suất giao dịch tăng nhẹ do một số ngân hàng hạn chế nguồn cung tiền, tuy nhiên nhìn chung lãi suất giao dịch LNH vẫn đang ở mức rất thấp.
Dự báo thời gian tới, diễn biến trên thị trường LNH sẽ tiếp tục ổn định. Tuy nhiên, lãi suất sẽ có những biến động mạnh khi các đối tác cho vay lớn trên thị trường thắt chặt nguồn cung hoặc chủ động làm giá, song không ảnh hưởng nhiều tới xu hướng của lãi suất khi thanh khoản của các ngân hàng vẫn ổn định.
Tín dụng tăng trưởng khó khăn
Theo báo cáo của NHNN, đến ngày 20/2, tín dụng toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế giảm 1,66% so với cuối năm 2013. Trong đó, tín dụng bằng VND giảm 1,94%, tín dụng ngoại tệ tăng 0,11%. Năm nay đang lặp lại diễn biến thường thấy trong những năm gần đây: tín dụng thường giảm hoặc tăng chậm trong những tháng đầu năm. Với sự cải thiện chậm chạp của khu vực sản xuất, bán lẻ, đầu tư… khả năng tín dụng phục hồi nhanh là rất khó khăn. Lãi suất cho vay giảm mạnh sau hàng loạt động thái hạ lãi suất huy động, lãi suất các chương trình cho vay của các ngân hàng đưa ra đã thấp hơn.
Trái phiếu, tín phiếu hút dòng tiền
NHNN tiếp tục duy trì tốc độ hút mạnh tiền về trong thời gian từ cuối tháng 2 tới nay. Công cụ bán tín phiếu trên thị trường mở (OMO) đang được NHNN tận dụng triệt để khi hoạt động cho vay cầm cố trên thị trường này quay về trạng thái trầm lắng sau Tết. Từ ngày 27/2 đến nay, không phát sinh khoản vay nào qua kênh cầm cố trên OMO. Trong khi đó, lượng tiền hút ròng qua kênh bán tín phiếu từ 20/2 đến 19/3/2014 là trên 60.000 tỷ đồng. Tổng mức tín phiếu còn lưu hành tính đến 19/3 đã tăng lên gần 145.000 tỷ đồng. Lãi suất tín phiếu NHNN tiếp tục giảm nhẹ đặc biệt sau khi có quyết định hạ trần lãi suất: lãi suất kỳ hạn 28 ngày còn 2,6%/năm, 91 ngày là 3,85%/năm.
Mặc dù có thời gian nghỉ Tết khá dài, trong tháng 2/2014, tổng số trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ bảo lãnh được phát hành vẫn đạt tới 25.070 tỷ đồng, nhiều hơn so với mức 21.631 tỷ đồng trong tháng 1. Lực cầu mua trái phiếu trong nửa đầu tháng 3 vẫn duy trì ở mức cao, giúp các tổ chức phát hành huy động được thêm 21.500 tỷ đồng. Tính đến hết ngày 19/3/2014 tổng mức phát hành trái phiếu là 68.201 tỷ đồng, trong đó lượng phát hành của Kho bạc Nhà nước (KBNN) là 56.262 tỷ đồng, Ngân hàng phát triển Việt Nam là 9.987 tỷ đồng và Ngân hàng Chính sách xã hội là 1.952 tỷ đồng. Ngoài ra, KBNN cũng đã phát hành được 13.000 tỷ đồng tín phiếu KBNN kỳ hạn dưới 1 năm. Như vậy, tổng vốn huy động của riêng KBNN (bao gồm trái phiếu và tín phiếu) là 69.562 tỷ đồng (bằng hơn 99% kế hoạch phát hành TPCP của quý I/2014 là 70.000 tỷ đồng). Như vậy, KBNN gần như đã hoàn thành kế hoạch và có thể phát hành vượt kế hoạch trong thời gian còn lại của tháng 3 khi nhu cầu mua trái phiếu vẫn rất cao.
![]() |
Tỷ giá tiếp tục ổn định
Xu hướng ổn định của tỷ giá tiếp tục duy trì trên cả thị trường chính thức và tự do. Nguồn cung ngoại tệ vẫn duy trì ổn định nhờ triển vọng tăng trưởng tích cực của các nguồn vốn từ nước ngoài (FDI, FII, ODA…). NHNN tiếp tục mua vào được lượng ngoại tệ lớn bổ sung cho dự trữ ngoại hối và đỡ cho tỷ giá không giảm sâu (từ đầu năm đến nay NHNN mua khoảng trên 4 tỷ USD). Trên thị trường tự do, tỷ giá giao dịch khá ổn định trong biên độ hẹp 21.100-21.200 VND/USD. Nhu cầu găm giữ ngoại tệ đang ở mức rất thấp khi thị trường vẫn kỳ vọng vào sự ổn định của tỷ giá.
Một số khuyến nghị chính sách
Nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế vĩ mô, thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra, ngày 06/8/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1317/QĐ-TTg phê duyệt Đề án cải cách cơ chế phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Quyết định đang được các cơ quan liên quan tích cực triển khai. Tuy nhiên, trước mắt cần sớm thống nhất ban hành Quy chế phối hợp trong điều hành và quản lý kinh tế vĩ mô giữa 4 cơ quan là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NHNN Việt Nam, Bộ Tài chính và Bộ Công Thương. Nội hàm của quy chế này chủ yếu là sự phối hợp giữa các chính sách tài khóa, tiền tệ, tín dụng, đầu tư, thương mại và giá cả nhằm đảm bảo thực hiện nhất quán và cân đối các mục tiêu kinh tế vĩ mô, bao gồm tăng trưởng, lạm phát, các cân đối lớn và việc làm.
Trên cơ sở định hướng điều hành Quốc hội yêu cầu: “tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, chính sách tài khóa chặt chẽ”, chúng tôi xin đưa ra một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất, Chính phủ sớm tuyên bố sẽ theo đuổi mục tiêu lạm phát 7% +-1%/năm trong 2014-2015, có thể sẽ thấp hơn ở trung hạn và kiên định các chính sách nhằm ưu tiên giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này giúp các chủ thể kinh tế và công chúng hình thành kỳ vọng lạm phát hợp lý, yên tâm triển khai các kế hoạch, dự án sản xuất kinh doanh hay thực hiện các dự định tiêu dùng cá nhân. Theo đó, NHNN khẩn trương xây dựng và triển khai khuôn khổ điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu. Khi có sự xung đột giữa các mục tiêu hoạt động được giao, NHNN được phép theo đuổi mục tiêu ưu tiên số một là lạm phát.
Thứ hai, NHNN sớm tuyên bố theo đuổi mục tiêu ổn định tỷ giá với biên độ biến động hẹp trong 2014-2015, không quá 2-3%, để các nhà đầu tư cả trong nước và ngoài nước yên tâm đầu tư kinh doanh, cũng như dân chúng có thể sẵn sàng chuyển hóa tài sản ngoại tệ sang nội tệ để tiêu dùng. Việc nới lỏng dần tiến tới tự do hóa tài khoản vốn cần chặt chẽ, thận trọng và theo một lộ trình thích hợp. Tuy nhiên, căn cứ vào lộ trình thực hiện các cam kết với quốc tế và khu vực khi thực lực quỹ dự trữ ngoại hối được bảo đảm, NHNN cần có những điều chỉnh tỷ giá thích hợp để phản ánh đúng hơn giá trị đối ngoại thực của VND theo nguyên tắc ngang giá sức mua.
Thứ ba, trong năm 2014-2015, sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi bội chi tăng, phải đẩy mạnh phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp cho nguồn chi. Trước thực trạng này, NHNN cần đảm bảo cung ứng đủ thanh khoản cho hệ thống tổ chức tín dụng, đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế nhưng không được làm gia tăng áp lực lạm phát tiền tệ, đồng thời phải tạo điều kiện cho Bộ Tài chính phát hành thành công tín phiếu và trái phiếu chính phủ theo kế hoạch 2014-2015. Ngược lại, Bộ Tài chính cũng cần tính toán kỹ và thống nhất với NHNN về lượng, cơ cấu kỳ hạn, thời điểm cũng như mức lãi suất trái phiếu dự kiến phát hành. Cần hết sức lưu ý là hệ thống tổ chức tín dụng hiện đang nắm giữ tới gần 500 nghìn tỷ đồng tín phiếu và trái phiếu chính phủ, chiếm trên 90% tổng lượng trái phiếu chính phủ đang lưu hành là một quan ngại lớn.
Thứ tư, NHNN cũng cần chủ động tính đến các công cụ chính sách tiền tệ thích hợp và sẵn sàng sử dụng được để trung hòa bớt lượng tiền bơm ra chủ yếu qua nghiệp vụ mua ngoại tệ can thiệp thị trường ngoại hối cũng như một phần qua kênh chiết khấu trái phiếu VAMC.
Thứ năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NHNN, Bộ Tài chính và Bộ Công Thương, tích cực triển khai “Lập chương trình tài chính” trên cơ sở nguồn dữ liệu chuẩn mực và các điều kiện, kịch bản kinh tế hợp lý, để thực sự có thể khai thác và sử dụng công cụ này một cách hữu hiệu, giúp cải thiện hiệu quả phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô ở nước ta.
Thứ sáu, Chính phủ cần quyết liệt hơn nữa trong cải cách thể chế và tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng trong khuôn khổ nền tảng mà Hiến pháp sửa đổi, năm 2013 quy định.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 53/2013/QH13 về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2014 của Quốc hội khóa 13;
2. Báo cáo Triển vọng kinh tế Việt Nam, Tháng 3/2014, VID Group;
3. Báo cáo nghiên cứu “Điều hành kinh tế vĩ mô Việt Nam 2011-2015: tiếp cận từ phía chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ” PGS. TS. Đào Văn Hùng, TS. Trịnh Quang Anh và Nhóm nghiên cứu Học viện Chính sách và Phát triển.
Kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2014: Nhìn từ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
(Tài chính) Khép lại quý I/2014, bên cạnh một số điểm sáng như: chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm, tỷ giá ổn định, cán cân thương mại cân bằng, mặt bằng lãi suất giảm và thị trường chứng khoán khởi sắc... "bức tranh" kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn còn những mảng “xám”. Bài viết đưa ra nét tổng quan kinh tế vĩ mô, trong đó phân tích tác động từ điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ...
Xem thêm