Kinh tế Việt Nam 2013: Kiên trì, linh hoạt và quyết liệt vượt khó
Trao đổi về kinh tế Việt Nam năm 2013, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Võ Trí Thành cho rằng nước ta cần tiếp tục kiên trì ổn định kinh tế vĩ mô với cách điều hành chính sách mềm dẻo và linh hoạt hơn, đồng thời là những hành động quyết liệt, cụ thể và thực sự có ý nghĩa trong công cuộc tái cấu trúc nền kinh tế. Với sự lạc quan thận trọng, TS. Võ Trí Thành tin rằng kinh tế Việt Nam sẽ khởi sắc trong năm 2013 nhờ vào sự đồng thuận, những bài học kinh nghiệm đã có, nguồn nội lực cộng với nguồn lực hỗ trợ bên ngoài cũng như từ sự phục hồi của kinh tế thế giới.

TS.Võ Trí Thành: Trong năm 2012, bên cạnh một loạt khó khăn trong hoạt động kinh tế, chúng ta đã tạo ra nhiều điểm sáng, tích cực dưới góc độ thực thi chính sách và cải cách. Thứ nhất, kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 11 đầu năm 2011 Về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô được xác định là mục tiêu nhất quán và xuyên suốt trong điều hành chính sách. Các nhà hoạch định chính sách đã nhận ra rằng, ổn định kinh tế vĩ mô là một điều kiện tiên quyết để chúng ta có thể phân bố các nguồn lực kinh tế hiệu quả, chuyển đổi cách thức phát triển theo hướng bền vững. Những năm tới, mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tiếp tục được kiên trì thực hiện và song hành với quá trình cải cách của nền kinh tế Việt Nam.
Điểm sáng thứ hai là các nhà hoạch định chính sách đã đặt ra một số nguyên tắc, hay thông qua một số chương trình tái cấu trúc các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như hệ thống ngân hàng, DNNN. Điều này cho thấy, Nhà nước đã nhận thấy sự cần thiết phải có những thay đổi có tính bước ngoặt để tiếp tục đưa nền kinh tế phát triển và cũng đã bắt đầu hành động. Trong bối cảnh quán tính tư duy cũ, các lợi ích nhóm (hưởng đặc quyền đặc lợi từ những bất cập của chính sách hiện hành) đang gây những trở lực không nhỏ thì những hành động vừa qua đã có được những thắng lợi bước đầu quan trọng.
Điểm sáng thứ ba là trong bối cảnh kinh tế khó khăn, kinh tế Việt Nam vẫn có những bước tiến mới trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực. Chúng ta tiếp tục đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), đi vào đàm phán các Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU), giữa Việt Nam và Liên minh Thuế quan Nga, Belarus, Kazakhstan,... Việt Nam đã thể hiện sự đóng góp có ý nghĩa vào tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Sau 5 năm gia nhập WTO, nền kinh tế mở của Việt Nam cũng chịu tác động nhiều hơn của nền kinh tế toàn cầu, cả tích cực và tiêu cực. Song hội nhập quốc tế vẫn là một trong những trụ cột quyết định sự thành công của quá trình cải cách và phát triển của Việt Nam.
Điểm sáng thứ tư, theo tôi, là thể chế Việt Nam, với đặc thù vốn có, đã có những bước chuyển tích cực, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế những năm tiếp theo. Đảng, Quốc hội, Chính phủ đều có những nhìn nhận lại mình và nhận thức rõ những tồn tại cần phải khắc phục để tương xứng và đáp ứng được với đòi hỏi của quá trình phát triển trong bối cảnh mới. Trước đây, cải cách chủ yếu tập trung vào kinh tế. Trong năm qua, hàm ý chính sách cho thấy những tín hiệu của quá trình cải cách đồng thời cả thể chế chính trị và kinh tế, với từng bước đi cụ thể nhằm thúc đẩy quá trình phát triển đất nước.
Tuy nhiên, tất cả mới chỉ là khởi đầu của công cuộc cải cách mới, mọi thứ hãy còn dở dang, đòi hỏi năm 2013 cần phải tiếp tục kiên trì và quyết liệt hơn với các định hướng chính sách đó. Những chuyển biến trên thực tế vững chắc hơn, có ý nghĩa hơn sẽ tiếp tục xây dựng niềm tin của thị trường, của nhà đầu tư vào quá trình cải cách của Việt Nam
Theo ông, để tiếp tục công cuộc đổi mới nền kinh tế, đồng thời đạt được các chỉ tiêu mà Nghị quyết số 31/2012/QH13 của QH Về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 đã đề ra, những việc cần phải làm là gì?
Theo Nghị quyết của QH, năm 2013 nền kinh tế phấn đấu tăng trưởng cao hơn năm 2012, đạt khoảng 5,5%, lạm phát 6-7%, xuất khẩu tăng 10%, bội chi ngân sách dưới 4,8% GDP... Trong đó, tư tưởng chung với mục tiêu tổng quát vẫn phải là tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, phục hồi ít nhiều tăng trưởng kinh tế.
Cần phải có các chính sách gỡ khó cho sản xuất kinh doanh và hỗ trợ thị trường. Chính phủ cũng đã xây dựng Nghị quyết chuyên đề về vấn đề này. Những khó khăn hiện tại của nền kinh tế cần thiết phải có được sự hỗ trợ đủ mạnh của Chính phủ. Các chính sách cần phải cụ thể và thực sự hiệu quả trong việc gỡ khó cho sản xuất kinh doanh, kích thích thị trường; giải quyết nợ xấu và hàng tồn kho; làm sao để một vài phân khúc của thị trường bất động sản có thể ấm lên…
Bên cạnh đó, điều quan trọng là phải bắt tay thực sự vào quá trình tái cấu trúc với những hành động cụ thể. Đối với DNNN thì có thể là tạo dựng sự minh bạch và việc xử lý một số một số tập đoàn. Đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng, cần kiên quyết xử lý các ngân hàng yếu kém còn lại, bắt tay vào xử lý nợ xấu. Đối với đầu tư công, cần phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, nghiên cứu ban hành và sửa đổi một số văn bản luật liên quan như Luật Ngân sách, Luật Đầu tư công, Luật Mua sắm Chính phủ, hoàn thiện khung khổ pháp lý về đầu tư trên nền tích cực của Chỉ thị số 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ.
Có thể thấy, để vừa ổn định, vừa phục hồi nền kinh tế là bài toán không hề dễ dàng. Nhiệm vụ này đòi hỏi chính sách phải cực kỳ linh hoạt. Chẳng hạn, đối với nhiệm vụ hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn của Nhà nước đối với sản xuất kinh doanh, nếu các chính sách không đủ sức lan tỏa, niềm tin của thị trường tiếp tục mất đi. Ngược lại, nếu các chính sách hỗ trợ một cách quá đà, thì lạm phát và bất ổn lại có thể quay trở lại; kinh tế Việt Nam tiếp tục rơi vào vòng luẩn quẩn của tăng trưởng, lạm phát, bất ổn. Trong vòng luẩn quẩn này, chẳng những nguồn lực kinh tế phân bổ không hiệu quả, mà người nghèo và các thành phần yếu thế trong xã hội sẽ là những người chịu tổn thương nhiều nhất.
Cách làm đã có trong khi trở ngại còn rất lớn. Theo ông, kinh tế Việt Nam có thể khởi sắc trong năm 2013 và những năm tiếp theo không?
Tôi cho rằng, dù trước mắt còn rất nhiều khó khăn, nhưng Việt Nam có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Trước hết, đó là vấn đề niềm tin xuất phát từ sự đồng thuận cao của cả dân tộc, doanh nghiệp và người dân. Người dân và doanh nghiệp cũng đã nhận thức được trong quá trình tái cấu trúc, có thể chịu những “đau đớn, hy sinh” nhất định. Thứ nữa, chúng ta có nhiều kinh nghiệm và bài học quý giá trong quá trình đổi mới kinh tế. Cùng với kinh nghiệm của mình, kinh tế Việt Nam cũng học hỏi được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá của các nền kinh tế của các quốc gia khác.
Mặt khác, nguồn lực kinh tế cho sự phục hồi phát triển và cải cách dù khó khăn nhưng vẫn có thể đáp ứng nếu biết cách huy động. Hiện tại, nguồn lực tài chính trong dân còn rất lớn, Chính phủ cần có chính sách hợp lý làm sao để huy động được nguồn lực này. Đồng thời, các nguồn lực hỗ trợ từ quốc tế cho Việt Nam cũng góp phần quan trọng. Con số cam kết tài trợ của quốc tế tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) vừa qua cũng không hề nhỏ.
Đầu xuân, người dân thường nói nhiều đến sự may mắn trong năm mới. Đối với nền kinh tế Việt Nam, sự may mắn này đến từ sự ổn định và phục hồi của kinh tế thế giới, tạo ra những xung lực tích cực khi chúng ta thực sự bắt tay vào công cuộc tái cấu trúc nền kinh tế.
Xin cám ơn ông!