Một số giải pháp phát triển thị trường hàng hóa trong nước
(Tài chính) Bên cạnh động lực tăng trưởng nhờ vào xuất khẩu, Việt Nam ngày càng quan tâm đến phát triển thị trường trong nước, làm điểm tựa cho tăng trưởng nhanh và bền vững nền kinh tế.
Xu hướng vận động của thị trường nước ta
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động, tiếp cận một cách tổng quát, có thể dự báo các xu hướng vận động của thị trường nước ta trong những năm tới như sau:
Một là, thị trường sẽ được thúc đẩy phát triển theo hướng hình thành thị trường cạnh tranh thực sự do áp lực cả từ phía thực thi các chính sách của Chính phủ, từ phía hoạt động của các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường cũng như yêu cầu của các cam kết quốc tế.
Hai là, thị trường sẽ phát triển theo hướng vừa gắn kết chặt chẽ giữa thị trường đô thị, nông thôn, miền núi và có sự bứt phá nhanh, vượt trội của thị trường đô thị, thị trường vùng - khu vực có lợi thế so sánh về quy mô sản xuất, khả năng thu gom, trung chuyển hàng hoá.
Ba là, thị trường ngày càng "nhạy cảm" hơn với các biến động của thị trường khu vực và quốc tế.
Trong điều kiện nền kinh tế mở với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và các doanh nghiệp (hãng) phân phối hàng hoá sản xuất ở nước ngoài trên thị trường Việt nam sẽ kéo theo những tác động của thị trường ngoài nước đến thị trường nội địa nước ta. Cường độ của những tác động đó tỷ lệ thuận với tỷ trọng của các doanh nghiệp nước ngoài trong nền kinh tế nói chung và hoạt động thương mại nói riêng. Trong xu thế này, thị trường các hàng hoá cơ bản có ảnh hưởng lớn đến thị trường hàng hoá khác; các hàng hóa, tư liệu đầu vào trung gian cho các ngành sản xuất trong nước sẽ "nhạy cảm" hơn đối với những tác động của thị trường ngoài nước.
Sự nhích lại gần và dần dần thống nhất các vùng kinh tế lớn của đất nước về quy mô các loại thị trường, tốc độ phát triển, cơ cấu và giá cả hàng hoá, dịch vụ (các loại) cũng là một xu thế. Song song với xu thế trên sẽ là quá trình tiếp tục tự do hoá (có sự quản lý, định hướng vĩ mô của Nhà nước) các yếu tố cơ bản và nhạy cảm nhất của thị trường (giá cả hàng hoá và dịch vụ, tỷ giá hối đoái và lãi suất...) để chúng được hình thành và vận động theo các quy luật của thị trường, nhất là quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh.
Văn hóa ưu tiên ủng hộ tiêu dùng nội địa là điều căn bản cho việc xác lập và phát triển sức cạnh tranh của một nền kinh tế, một quốc gia. Vì thế, cần tập trung xây dựng một chiến lược cho hàng hóa Việt Nam, chiến lược ấy phải hướng tới tạo lập một không gian đầy đủ cho tự do kinh doanh, sản xuất, cho sáng tạo để thị trường dẫn dắt doanh nghiệp tồn tại và phát triển, trên nguyên tắc thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam.
Một số giải pháp
Thương mại trong nước tạo ra giá trị trên 15% GDP và thu hút khoảng 5,4 triệu lao động, tức chiếm khoảng 10% tổng lao động toàn xã hội. Muốn có thị trường trong nước phát triển phải có một hệ thống giải pháp, chính sách phát triển đồng bộ với những phương thức hỗ trợ phù hợp. Theo đó cần phải xử lý tốt một số vấn đề sau:
Phát triển và đa dạng hóa các kênh phân phối
Quan điểm chung là đa dạng hóa các kênh phân phối, các loại hình tổ chức và phương thức hoạt động, các thành phần kinh tế, các chế độ sở hữu và các nguồn lực tham gia đầu tư phát triển. Kết hợp thương mại truyền thống với thương mại hiện đại. Xây dựng và củng cố các hệ thống phân phối lớn trên phạm vi cả nước đi đôi với tổ chức và phát triển mạng lưới phân phối nhỏ của địa phương. Tăng cường quản lý nhà nước đối với các hệ thống phân phối vì lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Theo đó:
- Với hệ thống bán lẻ của các tập đoàn, tổng công ty ngành hàng, thiết lập và phát triển mối liên kết dọc có quan hệ gắn kết chặt chẽ, ổn định và ràng buộc trách nhiệm trên từng công đoạn của quá trình lưu thông từ sản xuất, xuất nhập khẩu đến bán buôn và bán lẻ thông qua các quan hệ trực tuyến hoặc quan hệ đại lý, mua bán.
- Thiết lập hệ thống phân phối trên cơ sở xây dựng và phát triển hệ thống tổng kho bán buôn, hệ thống trung tâm logisstics được bố trí theo khu vực thị trường để tiếp nhận hàng hoá từ các cơ sở sản xuất, nhập khẩu và cung ứng hàng hoá cho mạng lưới bán buôn, bán lẻ (cửa hàng trực thuộc, các đại lý) trên địa bàn.
- Khuyến khích các doanh nghiệp lớn kinh doanh các nhóm, mặt hàng có mối liên hệ trong tiêu dùng tạo mối liên kết ngang trong khâu phân phối để giảm chi phí đầu tư, chi phí lưu thông của doanh nghiệp và giảm chi phí của xã hội nhờ tiết kiệm được thời gian mua sắm
- Có chính sách, giải pháp bảo vệ hệ thống bán lẻ trong nước khi thực hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ phân phối cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thực thi các chương trình khai thác thị trường nội địa
Thứ nhất, cần sớm ban hành hệ thống luật liên quan tới bán lẻ như Luật Bán lẻ, Luật Chất lượng sản phẩm… Bổ sung các quy chuẩn hiện có để hướng dẫn kinh doanh bán lẻ phát triển lành mạnh và làm cơ sở để các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm soát thị trường.
Thứ hai, quy hoạch tổng thể ngành bán lẻ trong cả nước và từng địa phương. Từ đó, đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng thương mại theo hướng văn minh, hiện đại, trước mắt, tập trung cho các chuỗi siêu thị bán lẻ, hệ thống các chợ.
Thứ ba, có định chế tài chính, tín dụng, chính sách đầu tư, đất đai thích hợp để hỗ trợ thực hiện quy hoạch xây dựng hạ tầng thương mại.
Thứ tư, tổ chức cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” đi vào chiều sâu, thực chất, đến với số đông người tiêu dùng. Hiệp hội Bán lẻ và Siêu thị phải làm đầu mối vận động các đơn vị hội viên nâng cao tỷ trọng hàng Việt Nam tại các trung tâm bán lẻ và siêu thị, kết hợp với các biện pháp quảng cáo, khuyến mại phù hợp.
Hỗ trợ doanh nghiệp phân phối Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh và phát triển thị trường
- Tăng cường đối thoại công tư về chính sách phát triển hệ thống phân phối và các biện pháp mở cửa thị trường phân phối (kể cả việc mở cửa ngoài phạm vi cam kết).
- Hỗ trợ Hiệp hội trong việc tổ chức đào tạo các nhà phân phối nội địa, nhất là đào tạo các nhà phân phối nhỏ lẻ.
- Tăng cường liên kết hợp tác giữa các nhà phân phối trong nước kể cả mua bán, sáp nhập để tạo sức mạnh tài chính đổi mới công nghệ, phát triển hệ thống xây dựng thương hiệu; liên kết giữa nhà sản xuất, nhà phân phối để ổn định nguồn hàng và thị trường tiêu thụ.
- Hoàn thiện quy chế quản lý về quảng cáo, ngăn chặn tình trạng các công ty mẹ ở nước ngoài chi trả quảng cáo cho các công ty trong nước vượt quá định mức, tạo ra sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Hoàn thiện và bổ sung chính sách đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng thương mại nông thôn
Kết cấu hạ tầng nông thôn nói chung, hạ tầng thương mại nói riêng còn rất thiếu và yếu. Trên thị trường nông thôn hiện nay vẫn tồn tại phổ biến các loại hình bán lẻ truyền thống (chợ, cửa hàng tư nhân), loại hình cửa hàng tự chọn chiếm 1,9% và siêu thị mới chỉ chiếm 0,42% số lượng cơ sở bán lẻ. Hơn nữa, quy mô của các cửa hàng bán lẻ phổ biến là hộ gia đình, sử dụng ít lao động và thiếu tính chuyên nghiệp. Chợ ở địa bàn nông thôn phân bố không đều, phần lớn chợ tập trung ở vùng nông thôn đồng bằng, còn tại địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người còn rất thưa thớt. Phần lớn chợ có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật lạc hậu, nghèo nàn, số chợ tạm còn nhiều, hoạt động kém, hoặc không hiệu quả. Việc sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ phát triển hạ tầng thương mại ở địa bàn nông thôn là rất cần thiết, theo đó:
- Nhà nước cần xem xét bổ sung các dự án đầu tư hạ tầng thương mại chủ yếu (kho, trung tâm logistic) vào danh mục được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định tại Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 29-9-2006 của Chính phủ.
- Cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại ở nông thôn được hưởng các chính sách khuyến khích đầu tư như các dự án về nông nghiệp theo Nghị định 61/2010/NĐ-CP về chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
- Áp dụng chính sách giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp mở rộng cơ sở kinh doanh trực thuộc ở địa bàn nông thôn hoặc sử dụng các hợp tác xã (HTX), hộ kinh doanh (ở mức độ nhất định) trên địa bàn nông thôn làm đại lý mua hàng nông sản và bán vật tư, máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp. Mức giảm thuế nhiều hay ít tuỳ thuộc vào số cơ sở kinh doanh tăng thêm, số hợp tác xã và hộ kinh doanh tham gia vào hệ thống phân phối của doanh nghiệp với tư cách đại lý.
- Áp dụng chính sách miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các HTX đối với phần thu nhập từ các dịch vụ phục vụ xã viên (cung ứng vật tư phục vụ sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá cho các hộ nông dân là xã viên HTX). Các hoạt động giao dịch giữa xã viên HTX và HTX không bị đánh thuế VAT. Đồng thời, cần tránh đánh thuế trùng lắp (thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân) đối với HTX và xã viên HTX.
- Hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh, là đại lý mua hàng nông sản và đại lý bán vật tư sản xuất nông nghiệp của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, HTX, Liên hiệp HTX... được xem xét giảm thuế thu nhập cá nhân hàng năm. Mức giảm cụ thể căn cứ vào số lượng hàng nông sản được tiêu thụ và số vật tư cung ứng cho nông dân (có chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã).
Ứng dụng thương mại điện tử để thu thập và sử dụng có hiệu quả các nguồn thông tin thị trường
Bối cảnh quốc tế và trong nước đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với hoạt động tư vấn và cung cấp thông tin thị trường, cả về sự đa dạng của nguồn tin lẫn nội dung và hình thức, cả về loại hình và nội dung của lượng thông tin cần tư vấn và cung cấp cho doanh nghiệp. Trong điều kiện Việt Nam, các phương pháp tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin thị trường theo kiểu truyền thống (sử dụng chuyên gia, sách báo, hồ sơ lưu trữ, điện thoại, hội nghị, hội thảo...) sẽ vẫn tồn tại song song với việc sử dụng những phương tiện, công cụ hiện đại như: Đĩa CD-ROM, máy tính nối mạng, hệ thống truyền thông đa phương tiện... Các loại thẻ tín dụng, thẻ nợ, thẻ thông minh đang mở ra khả năng để áp dụng các phương thức cung cấp thông tin và thanh toán chi phí mới, tiện dụng.
Thương mại điện tử giúp cho doanh nghiệp thu được nguồn thông tin thị trường phong phú, cập nhật và giảm chi phí thu thập thông tin. Để tận dụng có hiệu quả sự hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp cần có giải pháp tích cực hoàn thiện kết cấu hạ tầng thông tin, sử dụng các chương trình phần mềm hệ thống thích hợp với hoạt động của doanh nghiệp, hoàn thiện và đào tạo đội ngũ làm thông tin để tận dụng được sự hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra mạng Internet và dịch vụ cung cấp thông tin qua mạng là các nguồn thông tin thị trường nhanh nhậy trợ giúp tìm kiếm thông tin với tốc độ cao. Để có thể khai thác nguồn thông tin này có hiệu quả, các doanh nghiệp cần có những cán bộ khai thác thông tin thị trường am hiểu về kỹ thuật khai thác tin và nhanh nhậy trước phản ứng của thị trường.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần hỗ trợ tổ chức một số hội chợ cấp miền, cấp vùng cho những nhóm ngành hàng của doanh nghiệp sản xuất trong nước cần tiêu thụ. Cần kết nối hệ thống phân phối trên toàn quốc để tổ chức Tuần bán hàng Việt Nam, Tháng bán hàng Việt Nam có thưởng, có khuyến mãi... tạo thành một sự kiện chung có quy mô toàn quốc thay vì từng doanh nghiệp phải quảng cáo khuyến mại.
Xây dựng hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT)
Hàng rào kỹ thuật trong thương mại nhằm 3 mục đích cụ thể: giúp bảo hộ sản xuất, bảo vệ người tiêu dùng và gìn giữ môi trường sinh thái trong nước, đồng thời đối phó được với các rào cản của các nước khác. Theo đó:
- Hàng rào được xây dựng bằng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật, an toàn vệ sinh dịch tễ, đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức năng có liên quan. Theo đó, các tiêu chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng, các phương pháp sản xuất và chế biến, các thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp nhận... cho đến các quy định về phương pháp thống kê, chọn mẫu và đánh giá đều phải theo các định chuẩn quốc gia được xây dựng phù hợp với quy định của quốc tế.
- Hàng rào được xây dựng theo các tiêu chuẩn chế biến và sản xuất dựa theo các quy định về môi trường, chủ yếu áp dụng cho giai đoạn sản xuất, bao gồm từ các định chuẩn về chế độ nuôi trồng... đến những quy định liên quan đến nguyên vật liệu dùng làm bao bì, về tái sinh, về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng. Kèm theo đó là yêu cầu về nhãn mác, đóng gói, bao bì, lệ phí môi trường, nhãn sinh thái... được quy định chặt chẽ bằng hệ thống văn bản pháp luật.
Nhìn chung, hàng rào kỹ thuật trong thương mại là con đường bắt buộc chúng ta phải đi qua để tiến hành hội nhập kinh tế với các nước khác./.