Ngân hàng sở hữu chéo làm khuynh đảo thị trường
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng”, trong đó giao Ngân hàng Nhà nước xử lý dứt điểm tình trạng sở hữu chéo giữa các ngân hàng.
Quy định hiện hành nêu rất cụ thể như một cá nhân không thể sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng. Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một ngân hàng. Thêm vào đó, cổ đông và những người có liên quan với cổ đông đó như là ông bà, cha mẹ, vợ chồng... thì không được sở hữu quá 20% vốn điều lệ của một ngân hàng. Một ngân hàng để sở hữu một ngân hàng khác thì ngân hàng đó và các bên liên quan là các công ty con... không được mua vượt quá 40% của ngân hàng này.
Tuy nhiên, một số ngân hàng Việt Nam lại bất chấp quy định này mà bằng cách này cách kia để sở hữu chéo lẫn nhau gây rủi ro rất lớn cho nền kinh tế. Tôi nhớ năm 2012, Ngân hàng Nhà nước có gửi đến các ngân hàng biểu mẫu và yêu cầu tất cả các thành viên hội đồng quản trị của ngân hàng phải kê khai vào biểu mẫu đó với các thông tin như họ tên vợ chồng, anh chị em, tỉ lệ sở hữu cổ phần... Nhưng những thông tin kê khai đó được kiểm tra như thế nào thì không ai biết. Tôi nghĩ các cơ quan chức năng nắm được hết thực trạng ai nắm bao nhiêu cổ phần của ngân hàng trên giấy trắng mực đen thôi, còn phần chìm tức là họ nhờ đứng tên chắc chắn là không thể giám sát được. Do vậy, tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng vẫn là bóng đêm đối với nhiều người.
PV: Rủi ro từ sở hữu chéo gây ra như thế nào cho nền kinh tế, thưa ông?
TS. Nguyễn Trí Hiếu
Vì mục đích của tình trạng sở hữu chéo là để tạo ra lợi ích giúp một cá nhân, tổ chức có thể nắm nhiều ngân hàng, doanh nghiệp. Qua đó, cá nhân và tổ chức đó có thể thâu tóm thị trường làm khuynh đảo một hoặc nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế - xã hội vì lợi ích của bản thân họ.
Đơn cử, lãi suất cho vay có thể bị đẩy lên khiến chi phí vốn của hoạt động sản xuất kinh doanh toàn xã hội cao hơn. Rồi tiền huy động của dân chúng sẽ chỉ phục vụ mục đích kinh doanh của những đối tượng này.
Các nước có tình trạng này không, thưa ông?
Họ giám sát việc này rất chặt chẽ. Như để mua cổ phiếu của ngân hàng thì cá nhân, tổ chức không được phép đi vay mà phải mua bằng tiền tiết kiệm hay từ bán bất động sản... Tức là họ kiểm soát chặt chẽ nguồn tiền đầu tư vào ngân hàng.
Theo ông, giải pháp nào có thể xử lý dứt điểm tình trạng sở hữu chéo?
Phải biết rõ được thực trạng của tình trạng này qua việc Ngân hàng Nhà nước thanh tra, giám sát tại các ngân hàng. Quy định hiện hành đã có rồi, các ngân hàng phải thực hiện nghiêm việc này. Còn anh nào làm sai, đầu tư quá tỉ lệ cho phép thì phải buộc thoái vốn qua việc bán cổ phần, cổ phiếu. Ngân hàng Nhà nước cần có một lộ trình cụ thể để các ngân hàng thực hiện.
Tôi cho rằng việc kêu gọi các ngân hàng thực hiện việc này bằng trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp thì sẽ không thể xử lý được. Do vậy, cần phải có chế tài như xử phạt hành chính, thậm chí nếu không chấp hành nghiêm thì có thể bị truy tố... Vì thực tế, chân rết lợi ích của việc sở hữu chéo lớn lao vô cùng. Họ có thể hi sinh một số tiền lớn để tiếp tục duy trì tình trạng sở hữu chéo.
Có ý kiến cho rằng nên quy định ngân hàng chỉ được huy động vốn để cho vay hoặc hoạt động đầu tư, chứ không thể làm cả hai vai như hiện nay?
Tôi đồng ý với đề xuất này. Bởi đây là nguyên nhân gây ra tình trạng sở hữu chéo khi thể chế tài chính của chúng ta cho phép ngân hàng đa năng. Tức là ngân hàng vừa hoạt động thương mại là huy động vốn và cho vay và ngân hàng vừa hoạt động đầu tư. Nhiều ngân hàng dùng vốn huy động của dân chúng, của xã hội đáng lẽ là cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh nhưng lại ủy thác cho các công ty con đầu tư ximăng, hải sản, bất động sản, chứng khoán, mua cổ phiếu... và nhiều ngành nghề rủi ro khác.
Ở Mỹ, hệ thống ngân hàng rất rạch ròi, ngân hàng đầu tư chỉ đầu tư, còn ngân hàng thương mại thì huy động tiền của dân chúng để cho vay chứ không được đầu tư. Nếu được đầu tư thì chỉ dành một phần rất nhỏ để mua trái phiếu của chính phủ.
Ở Việt Nam tới thời điểm này, theo tôi được biết thì chưa có một nghiên cứu để thấy các lĩnh vực đầu tư của ngân hàng hiệu quả ra sao, thất thoát như thế nào... Chúng ta chỉ biết số nợ xấu. Đây là lỗ hổng rất lớn trong hệ thống ngân hàng hiện nay.
PGS., TS. Trần Hoàng Ngân (Đại biểu Quốc hội TP. Hồ Chí Minh): Phải minh bạch để xử lý sở hữu chéo
Để xử lý dứt điểm sở hữu chéo, theo tôi, trước hết phải công khai, minh bạch. Sau khi có đề án của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cần vào cuộc quyết liệt, đồng thời phối hợp với Bộ Tư pháp để rà soát lại các quy định có liên quan đến vấn đề sở hữu chéo giữa các ngân hàng thương mại. Ví dụ, trong quy định pháp luật hiện nay có quy định nào cho phép sở hữu chéo thì phải trình cấp có thẩm quyền sửa đổi. Tiếp tục hoàn thiện các quy định mua bán, sáp nhập, hợp nhất ngân hàng. Luật hiện nay đã có quy định về giới hạn tỉ lệ sở hữu cổ phần, nếu chúng ta công khai, minh bạch thì sẽ góp phần quan trọng để loại trừ hành vi sử dụng “sân sau” để nắm giữ số cổ phần quá giới hạn cho phép. Cần làm rõ với các cổ đông sáng lập ngân hàng thì các cổ đông đó có được quyền sở hữu ở các nơi khác nhau không, tỉ lệ bao nhiêu, chỉ có Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Ủy ban Chứng khoán mới công khai được, chứ hiện nay còn mập mờ quá. Hoạt động ngân hàng trên cơ sở niềm tin, ở đâu mà người ta còn cảm thấy có sở hữu chéo thì người ta sẽ nghĩ đến sự lũng đoạn, như vậy niềm tin của người dân và của các cổ đông nhỏ lẻ sẽ bị ảnh hưởng.
Ông Nguyễn Phước Thanh (Tổng Giám đốc Vietcombank): Yêu cầu thoái vốn, chúng tôi sẽ thực hiện
Tôi cho rằng khái niệm sở hữu chéo cần làm rõ vì có nhiều lý do dẫn đến việc ngân hàng sở hữu cổ phần của ngân hàng khác. Trước năm 2000, các ngân hàng cổ phần muốn thành lập phải có vốn góp của các ngân hàng quốc doanh, theo chỉ định của Nhà nước, thời gian đó Vietcombank góp vốn vào các ngân hàng Quân Đội, Phương Đông, Sài Gòn Công thương với tư cách là cổ đông nhà nước. Số cổ phần này đến nay Vietcombank vẫn duy trì.
Hiện Vietcombank cũng dùng hàng ngàn tỉ đồng để mua cổ phần của ngân hàng khác và coi đó như là một hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, với mọi trường hợp ngân hàng đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật như không sở hữu quá 11%, nguồn tiền để mua cổ phần của ngân hàng khác lấy từ vốn chủ sở hữu. Đến nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có yêu cầu nào đối với số cổ phần mà Vietcombank sở hữu của những ngân hàng khác. Còn nếu đến một lúc nào đó mà Ngân hàng Nhà nước yêu cầu thoái vốn thì ngân hàng sẽ thực hiện.
Ông Đỗ Minh Toàn (Tổng Giám đốc ACB): Tập trung vào hoạt động chính của ngân hàng thương mại
Việc ACB mua cổ phần của những ngân hàng khác thời gian qua đơn thuần là hoạt động đầu tư thuần túy và đến nay ACB cũng đã bán gần hết số cổ phần sở hữu của Eximbank, Đại Á, Kiên Long. Còn khoản đầu tư tại VietBank, ACB hiện còn sở hữu chưa đến 5% và cũng có kế hoạch thoái hết vốn. Việc xử lý dứt điểm sở hữu chéo giữa các ngân hàng giúp hoạt động của các ngân hàng minh bạch, độc lập hơn và các ngân hàng tập trung vào hoạt động chính của ngân hàng thương mại hơn là hoạt động đầu tư.