Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nhiều NHTM đã mở chi nhánh và văn phòng đại diện ở nước ngoài, đó là Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) có văn phòng đại diện tại Singapore; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) mở văn phòng đại diện tại Campuchia; Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) mở chi nhánh ở Lào, Campuchia, Sacombank còn thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Campuchia (10/2011); Ngân hàng Quân đội (MB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) cũng đã khai trương chi nhánh tại Campuchia. Ngoài ra, Vietcombank, ACB, BIDV cũng đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép mở văn phòng đại diện tại Mỹ, tuy nhiên, Cục Dự trữ liên bang Mỹ chưa chấp thuận.
Tại các chi nhánh ở Lào và Campuchia, đối tượng khách hàng mà ngân hàng Việt Nam hướng tới là các doanh nghiệp Việt kiều, nhân viên Việt Nam đang làm việc tại các tổ chức, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các tầng lớp dân cư của hai nước.
Thị trường Lào và Campuchia được các ngân hàng đánh giá là dễ triển khai dịch vụ và dễ chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên, với dân số khiêm tốn hơn so với Việt Nam, việc mở rộng đầu tư sang thị trường hai nước này cần phải được các ngân hàng Việt Nam xem xét, phân tích kỹ nhất là về dân số, tỷ lệ dân thành thị.
Bên cạnh thị trường khu vực Đông Dương, nhiều NHTM còn tìm kiếm địa bàn hoạt động ở những nước phù hợp với tiêu chuẩn và nguồn lực của mình. Sự kiện Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank) mở văn phòng đại diện (năm 2010) và thành lập chi nhánh tại Đức (năm 2011) đã đánh dấu bước phát triển mới của ngành Ngân hàng nói riêng và nền tài chính Việt Nam nói chung trên thị trường quốc tế.
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (FIA), tính đến tháng 04/2012, tổng số dự án đăng ký đầu tư ra nước ngoài của ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm Việt Nam là 31 dự án với tổng nguồn vốn đầu tư là 467,8 triệu USD (FIA, 2013) (Bảng 1)
BẢNG 1: MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM CÓ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI ( TÍNH ĐẾN 31/12/2012)
(Đơn vị tính: tỷ đồng)
TT |
Ngân hàng |
Vốn điểu lệ |
Vốn chủ sở hữu |
Tổng tài sản |
Lợi nhuận sau thuế |
NPL (%)* |
Số lượng VPĐD/ chỉ nhánh tại nước ngoài |
Ghi chú |
1 |
Vietcombank |
23.174 |
41.553 |
414.475 |
4.427 |
2,40 |
1 |
VPĐD tại Singapore |
2 |
Vietinbank |
26.217 |
33.625 |
503.530 |
6.170 |
1,48 |
3 |
Đức (2 CN), Lào (1 CN) |
3 |
BIDV |
23.012 |
26.494 |
484.785 |
2.572 |
2,9 |
4 |
VPĐD (Lào, Campuchia, Myanmar, CH Séc) |
4 |
Sacombank |
10.740 |
13.414 |
151.282 |
987 |
1,97 |
8 |
Lào (1 CN, 1 PGD), Campuchia (1 SGD, 5 CH) (số liệu tính đến 31/3/2013) |
5 |
MB |
10.000 |
12.864 |
175.610 |
2.320 |
1,84 |
2 |
Lào (1 CN), Campuchia (1 CN) |
6 |
SHB |
8.866 |
9.506 |
116.538 |
1.687 |
8,8 |
2 |
Lào (1 CN), Campuchia (1 CN) |
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thường niên năm 2012 của các ngân hàng Vietcombank, BIDV, Vietinbank, Sacombank, SHB, MB)
(*) NPL (%) = Nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5)/Tổng dư nợ tín dụng
Lợi ích và thách thức khi NHTM Việt Nam đầu tư ra nước ngoài
Những lợi ích
Thứ nhất, đây là dấu hiệu cho thấy sức cạnh tranh của các NHTM Việt Nam đang từng bước được nâng cao. Việc mở rộng đầu tư ra nước ngoài cho thấy các ngân hàng không chỉ phát triển mạnh mẽ trong nước, mà còn từng bước khẳng định thương hiệu tại thị trường quốc tế.
Đầu tư ra nước ngoài giúp các ngân hàng trong nước thực hiện cam kết với các nhà đầu tư và khách hàng trong việc đa dạng hóa hoạt động, phân tán rủi ro và tăng thu phí dịch vụ, làm tăng hiệu quả hoạt động và góp phần nâng cao kinh nghiệm, hình ảnh, vị thế của NHTM Việt Nam trên thị trường quốc tế, vươn lên trở thành tập đoàn tài chính ngân hàng hiện đại, hiệu quả và chủ lực của nền kinh tế, đặc biệt là các NHTM lớn của Nhà nước. Bên cạnh đó, góp phần thúc đẩy thanh toán cho các giao dịch ngoại thương giữa các nước sở tại nơi ngân hàng mở rộng mạng lưới với Việt Nam, đây cũng là động lực giúp phát triển hệ thống doanh nghiệp Việt Nam theo mô hình tập đoàn hiện đại, hoạt động xuyên quốc gia.
Thứ hai, việc mở rộng đầu tư của các tổ chức tín dụng ra nước ngoài cũng giúp các doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động ở nước ngoài có thêm cơ hội hợp tác, hỗ trợ về mặt tín dụng, tài chính phù hợp, giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong giao dịch và thanh toán quốc tế.
Các NHTM Việt Nam mở rộng đầu tư ra nước ngoài cũng rất kỳ vọng tỷ lệ vốn vay của doanh nghiệp FDI tại ngân hàng sẽ tăng lên. Đồng thời, lượng kiều hối sẽ tăng cao, với mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc, lệnh chuyển tiền về nước sẽ được thực hiện nhanh chóng với mức chi phí cạnh tranh. Theo thống kê, hiện nay, có trên 4 triệu người Việt Nam ở hải ngoại, trong đó có khoảng 500.000 lao động xuất khẩu đang sinh sống ở 101 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đặc biệt các thị trường Đông Á, Đông Nam Á, Tây Âu, Đông Âu, Trung Đông có lực lượng xuất khẩu lao động rất lớn. Lượng tiền chuyển về từ lực lượng này đã góp phần đáng kể trong tổng lượng kiều hối chuyển về Việt Nam những năm gần đây. Lượng kiều hối năm 2012 đạt 10 tỷ USD (SBV, 2013), tăng khoảng 20% so với năm 2011, cao hơn mức tăng trung bình 10 - 15% của những năm gần đây.
Và những thách thức
Một là, điều đáng lo ngại đối với các ngân hàng khi mở rộng đầu tư ra nước ngoài là sự cạnh tranh trong môi trường quốc tế rất cao, đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải chuẩn bị tốt các phương án cho hoạt động của mình, đảm bảo hoạt động ổn định, lành mạnh và có hiệu quả.
Hơn nữa, chi phí hoạt động tại nước ngoài sẽ rất tốn kém. Mặt khác, nếu ngân hàng không chuẩn bị tốt phương án về vốn thì lượng vốn dành cho doanh nghiệp trong nước cũng sẽ bị thu hẹp, không đáp ứng đủ nhu cầu, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Hai là, bên cạnh đó, lĩnh vực cho vay nước ngoài chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với cho vay trong nước bởi vì nguồn thông tin ở nước ngoài thường kém tin cậy hơn so với cho vay trong nước, việc kiểm soát các khoản tín dụng ở gần dễ hơn và hiện vẫn chưa có hệ thống tòa án quốc tế chính thức để đảm bảo tính hiệu lực cho các hợp đồng cũng như để giải quyết tranh chấp khi xảy ra phá sản.
Rủi ro gia tăng đối với những khoản cho vay quốc tế thường gọi là rủi ro quốc gia, nó xảy ra khi chính phủ nước ngoài can thiệp vào việc hoàn trả khoản vay quốc tế, chẳng hạn thoái thác toàn bộ nghĩa vụ trả nợ nước ngoài, tịch thu tài sản cá nhân hay trì hoãn thanh toán nợ trong một thời gian dài để duy trì dự trữ ngoại hối.
Vì vậy, các ngân hàng có hoạt động tín dụng quốc tế phải có những phương thức phòng chống rủi ro, phải phân tích kỹ cá nhân người vay, đất nước và chính phủ nơi người vay định cư (Rose, 1998).
Một số đề xuất khi thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Chính phủ nên sớm xây dựng chiến lược phát triển kinh tế tổng thể về đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam để có những biện pháp hỗ trợ cụ thể, thiết thực cho sự phát triển của hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Cơ quan chuyên trách của Chính phủ Việt Nam nên tăng cường công tác cung cấp thông tin về cơ hội đầu tư ở các nước, xúc tiến hoạt động đầu tư ra nước ngoài như một số quốc gia phát triển đã làm, tăng cường hơn nữa hoạt động xúc tiến đầu tư ra nước ngoài, giới thiệu và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp về chính sách đầu tư của các thị trường tiềm năng (FIA, 2013).
Các cơ quan đại diện của Chính phủ Việt Nam ở nước ngoài như Đại sứ quán, Lãnh sự quán, tham tán thương mại và đầu tư nên tham gia hiệu quả hơn nữa trong việc hỗ trợ xúc tiến các dự án đầu tư ra nước ngoài, tham gia vào việc giám sát các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài, tránh tình trạng không nắm rõ được số lượng các dự án, các khó khăn thuận lợi của nhà đầu tư, trong khi đó, các nhà đầu tư cũng không chủ động gặp gỡ, báo cáo tình hình hoạt động của dự án.
Điều này làm cho các nhà đầu tư Việt Nam rơi vào tình cảnh lạc lõng, đơn lẻ hoặc xung đột với nhau khi giải quyết những khó khăn trong việc triển khai dự án tại nước sở tại. Hoạt động tham gia này của các cơ quan đại diện Chính phủ Việt Nam ở nước ngoài sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam không phải tự bơi, và không cảm thấy lạc lõng trong môi trường quốc tế, đồng thời cũng sẽ tác động tâm lý tốt đến các doanh nghiệp trong nước đang có ý định đầu tư ra nước ngoài, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tự tin hơn khi tham gia và hoạt động trong môi trường quốc tế (FIA, 2013).
Xây dựng Trung tâm thông tin đồng bộ, thống nhất, nối mạng với các Sở Kế hoạch và Đầu tư, các ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, doanh nghiệp FDI, hải quan, cơ quan thuế, ngân hàng để khắc phục nhược điểm thiếu thông tin, không cập nhật, nhằm đánh giá đúng thực trạng và đề ra giải pháp xử lý kịp thời đối với hoạt động FDI trong cả nước.
Hiện nay, FIA đang xây dựng Trung tâm Thông tin này với dữ liệu ban đầu là nguồn vốn FDI vào Việt Nam. Đây là điều đáng mừng đối với việc quản lý hiệu quả nguồn vốn FDI tại Vỉệt Nam. Trong tương lai, Trung tâm thông tin này nên tăng cường thêm những thông tin về FDI ra nuớc ngoài cùa các doanh nghiệp Việt Nam, bằng cách tăng cường giám sát. kết hợp với các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài và báo cáo của chính các doanh nghiệp cỏ đầu tư ra nước ngoài, đồng thời cùng là trung tâm tiếp nhận những phản ánh, ý kiến, nguyện vọng của các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài dể kịp thời quản lý, hỗ trợ pháp lý và cập nhật thông tin về nguồn vốn FDI của Việt Nam ra nước ngoài.
Đặc biệt về quản lý của nhà nước đối với hoạt động của NHTM Việt Nam ở nước ngoài, trước hết, cần tuân thủ theo luật pháp trong nước và quốc tế sao cho vừa quản lý chặt chẽ các tổ chức này theo yêu cầu hoạt động của Việt Nam, vừa theo yêu cầu hoạt động của nước sở tại. Nhà nước cần đứng đằng sau các NHTM để hỗ trợ, bảo trợ về pháp lý với tư cách là thương hiệu quốc gia để đảm bảo các tổ chức này được an toàn, thuận lợi trong nhũng tranh chấp quốc tế cũng như khai thông môi trường pháp lý cho hoạt động của các tổ chức này ở nước ngoài.
Các NHTM Việt Nam cần xây dựng lộ trình phát triển cụ thể, nên xem việc đầu tư ra nước ngoài là hoạt động đầu tư ban đầu để có lộ trình phát triển cụ thể, dần dần từng bước một, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không nên dồn quá nhiều nguồn lực. Nhà nước cũng cần có chính sách vừa ủng hộ, vừa thắt chặt trong việc mở rộng đầu tư ra nước ngoài đối với các ngân hàng do nhà nước nắm cổ phần chi phối, tránh trường hợp trong nước còn thiếu vốn mà lại đầu tư lớn ra nước ngoài.
Trước mắt, các NHTM nên tập trung vào việc nâng cao năng lực tài chính và chất lượng phục vụ để khai thác tối đa thị phần trong nước, nơi NHTM Việt Nam có lợi thế sân nhà. Bởi vì, hầu hết các NHTM trong nước đều đã có một mạng lưới rộng khắp thông qua các chi nhánh và sở giao dịch với một hệ thống các khách hàng truyền thống từ nhiều năm, đặc biệt là khối các NHTM Nhà nước.
Không những thế, với thâm niên hoạt động của mình, các ngân hàng nội địa rất am hiểu tập quán, phong tục, tâm lý khách hàng Việt Nam. Chỉ những ngân hàng có tiềm lực tài chính mạnh, khả năng quản trị điều hành và quản trị rủi ro tốt, đồng thời có khả năng ứng phó với các tình huống pháp lý, tài chính và ngân hàng quốc tế tốt mới nên nghĩ đến việc mở rộng đầu tư ra nước ngoài, tránh tình trạng đầu tư theo trào lưu, theo xu hướng. Bởi vì, các ngân hàng cần biết rằng khi ra thị trường quốc tế thì bản thân các ngân hàng mang thương hiệu Việt Nam sẽ đại diện cho hình ảnh Việt Nam trên toàn thế giới nói chung và trong lĩnh vực tài chính thế giới nói riêng. Việc này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là cơ quan cấp phép hoạt động đầu tư ra nước ngoài cho các ngân hàng, phải đặc biệt quan tâm, nhằm bảo vệ hình ảnh Việt Nam trên toàn thế giới và tránh rủi ro cho hoạt động của hệ thống ngân hàng trong nước.
Các NHTM Việt Nam đã và đang hoặc có ý định đầu tư ra nước ngoài trước hết nên thăm dò, từng bước tiếp cận thị trường nước ngoài bằng cách mở văn phòng đại diện, góp vốn liên doanh; cũng có thể học tập theo cách mà các ngân hàng nước ngoài, tập đoàn tài chính quốc tế đã và đang làm tại thị trường Việt Nam là góp vốn mua cổ phần, trở thành cổ đông chiến lược của các NHTM Việt Nam, từng bước sở hữu vốn cổ phần của các NHTM nước sở tại, hợp tác với các đối tác nước ngoài với lợi thế của ngân hàng liên doanh, để có thể tận dụng mạng lưới, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực và số lượng khách hàng đông đảo của các NHTM nước sở tại, dần từng bước am hiểu thị trường sở tại nội địa, sau đó mới tính đến việc thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài.
Các NHTM Việt Nam cũng cần chú ý là chỉ nên mua cổ phần của các ngân hàng nước sở tại có uy tín, có hệ thống quản trị rủi ro tốt. Thông thường, cổ đông chiến lược sẽ là những tập đoàn tài chính, ngân hàng có nguồn vốn lớn, có kinh 1 nghiệm hoạt động lâu năm, có trình độ chuyên môn, công nghệ tiên tiến, và sẽ hỗ trợ ngân hàng nước sở tại bằng những lợi thế nêu trên. Vì vậy, trước mắt, các NHTM Việt Nam chỉ nên mở rộng đầu tư sang các nước mà Chính phủ sở tại có nhiều ưu đãi, dân số và tỷ tệ dân thành thị ở mức tương đối, có đông người Việt sinh sống, dịch vụ tài chính và ngân hàng phát triển ở mức vừa phải như thị trường Đông Dương, Trung Quốc, ASEAN. Về lâu dài, sẽ tính đến việc mở rộng thị trường sang các nước phát triển như Mỹ, châu Âu.
Các NHTM Việt Nam đầu tư ra nước ngoài cần chú trọng vào tính hiệu quả; đó chính là việc tập trung vào khách hàng, đặc biệt là thu hút khách hàng mới và tạo hình ảnh cho chi nhánh mới, khách hàng cần dược chỉ dẫn rõ ràng về những dịch vụ nào được cung cấp tại chi nhánh. Các NHTM Việt Nam đầu tư ra nước ngoài nếu chủ yếu tập trung phục vụ cho người Việt ở nước ngoài thì nên chọn các khu vực có đông kiều bào sinh sống, địa điểm hợp lý nhất là tại các khu vực với những hộ gia đình và cá nhân có thu nhập trung bình, nơi các cửa hàng bán lẻ và các cửa hàng bách hóa, các chợ có mật độ tập trung cao. Đây là nơi mà chỉ nhánh ngân hàng có khả năng huy động được tiền gửi và cung cấp những khoản tín dụng. Nên có những sản phẩm đặc thù cho địa phương, bởi vì trong một hệ thống các NHTM với những sản phẩm tương tự nhau thì ngân hàng nào với sản phẩm đặc biệt sẽ gây chú ý hơn và khả năng thành công vì thế sẽ cao hơn.
Hoạt động ngân hàng ở nước ngoài, đặc biệt là ở những thị trường khó tính ở các nước phát triển như Mỹ, châu Âu đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng Việt Nam phải đặc biệt chú trọng trình độ của các nhà quản lý và đội ngũ nhân viên của chi nhánh nước ngoài, chú trọng đào tạo cả về trình độ chuyên môn, đạo đức và đặc biệt là khả năng am hiểu địa phương (đội ngũ nhân viên của chi nhánh luôn có nhân công tại địa phương đặt chi nhánh vì khả năng am hiểu tâm lý, lối sống, sở thích của dân địa phương; có kinh nghiệm hoạt động ngân hàng thì càng tốt, đặc biệt nếu chi phí hợp lý có thể thuê nhiều nhân viên thuộc dạng này).
Hơn nữa, chi nhánh cũng giúp tạo công ăn việc làm ở nước sở tại (đây cũng có thể là một trong những quy định khuyến khích mà các cơ quan quản lý nước sở tại đưa ra khi thu hút vốn FDI). Ngân hàng phải đặt uy tín lên hàng đầu, đồng thời phải chú ý quan tâm đến phát triển cộng đồng tại địa phương đặt chi nhánh. Việc này sẽ vừa tạo tiếng vang, hình ảnh tốt cho ngân hàng nói riêng và Việt Nam nói chung trong mắt bạn bè quốc tế, vừa nhận được thiện cảm của các nhà quản lý sở tại, vừa có lợi về thuế (đặc biệt là các chương trình từ thiện, chương trình cho thiếu nhi, phụ nữ, chương trình chăm sóc sức khỏe).
Các NHTM Việt Nam đầu tư ra nước ngoài nên tăng cường liên kết với nhau trong việc chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ nhau để cùng hoạt động, đặc biệt là nên tham gia vào Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài, tránh tình trạng hoạt động mang tính riêng lẻ, không những không liên kết, hỗ trợ nhau mà còn cạnh tranh không lành mạnh, gây khó khăn cho nước sở tại ảnh hưởng đến hình ảnh Việt Nam trong giới kinh doanh quốc tế.
Ngân hàng thương mại Việt Nam và câu chuyện mở rộng đầu tư ra nước ngoài
(Tài chính) Trong xu hướng toàn cầu hóa, việc mở văn phòng đại diện và chi nhánh ở nước ngoài của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam là điều tất yếu.
Xem thêm