Người về từ B5 - Đường 9 Quảng Trị (Phần 2)

Khiếu Quang Bảo

TCTC xin trân trọng đăng tải phần cuối bài viết của tác giả Khiếu Quang Bảo về những người lính chiến khu Đường 9 năm xưa. Qua bài viết, thế hệ trẻ sẽ hiểu thêm về tinh thần yêu nước, dũng cảm hy sinh thân mình vì nền độc lập dân tộc của những người chiến sỹ anh hùng ngày đó, từ đó trau dồi thêm niềm tin và lẽ sống cho mình trong công cuộc xây dựng đất nước hôm nay

Người về từ B5 - Đường 9 Quảng Trị (Phần 2)
Lễ trao tặng kỷ niệm chương bảo vệ Thành Cổ.

Tháng trước tôi được Ban Liên lạc Hội Cựu chiến binh huyện Thạch Thất ngọai thành Hà Nội, được gọi vắn tắt là “Ban liên lạc CCB d3-e84”, mời tham dự  Lễ trao tặng “Kỷ niệm chương Bảo vệ Thành Cổ” cho 101 cựu chiến binh thuộc huyện Thạch Thất, mới có dịp quen với Đại tá Nguyễn Sinh Ngợi - Trưởng Ban Liên lạc Cựu chiến binh B5 Đường 9 toàn quốc, cùng Đại úy Hoàng Quốc Huy và Đại tá Trần Xuân Lũng - Trưởng ban và Phó trưởng Ban Liên lạc Cựu chiến binh B5 Đường 9 khu vực phía Bắc. Cả ba người trước đó cùng có mặt trong đoàn tháp tùng nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, nguyên Chính ủy Mặt trận B5 – B4, về Quảng Trị thăm chiến trường xưa, hội thảo khoa học, và tham dự Lễ kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Quảng Trị.

Tôi ngạc nhiên hỏi Đại tá Trần Xuân Lũng, trong số 400 Kỷ niệm chương Bảo vệ Thành Cổ cho toàn khu vực phía Bắc, thì riêng huyện Thạch Thất Hà Nội chiếm 101. Cựu chiến binh Thiên Thai phụ trách Ban Liên lạc CCB d3-e84 cho hay, tất cả số thanh niên Thạch Thất nhập ngũ ngày 27-1-1966 đều được phiên chế vào đơn vị e84-f351. Nhận vũ khí mới, huấn luyện gấp rồi hành quân thần tốc hơn 3 tháng vào mặt trận B5 Đường 9 Quảng Trị, đón cái Tết đầu tiên xuân Đinh Mùi năm 1967 tại chiến trường. Vậy là họ cùng chiến đấu ở Trung đoàn pháo 84. Mở màn cho chiến dịch mặt trận B5, Trung đoàn 84 được Bộ Tư lệnh mặt trận giao nhiệm vụ dùng hỏa lực tập kích vào cứ điểm 241 Tân Lâm phía nam Đường 9.

Cứ điểm này địch dựng lên nhằm ngăn chặn đường tiến quân của ta từ Cam Lộ lên Khe Sanh, Làng Vây. Anh Thiên Thai cho hay, trận tập kích bằng hỏa lực đêm ngày mồng 6 rạng sáng 7-3-1967 vào cứ điểm 241 Tân Lâm của Mỹ là trận đánh đầu tiên của Trung đoàn 84 đã chiến thắng ròn rã, lập chiến công đầu xuất sắc, tiêu diệt gần 2.000 lính Mỹ, phá hủy và phá hỏng 2 máy bay trực thăng, 5 xe tăng, 30 xe cơ giới, 20 khẩu pháo các loại 175-155- 105 ly. Mục tiêu đã cháy suốt 48 giờ. Địch phải dùng tới 50 lần chuyến trực thăng, 450 lần chuyến xe cơ giới để chuyên chở xác lính Mỹ.

Chiến thắng trận này có công của tiểu đội Bùi Ngọc Đủ 1 thắng 20 trên “đồi không tên” đã đánh lui một đại đội lính Mỹ, tiêu diệt 41 tên có 5 sỹ quan, địch phải dùng 6 máy bay trực thăng lượm xác.

Sau đó, trận chiến “81 ngày đêm” bảo vệ Thành Cổ và thị xã Quảng Trị là trận chiến quyết liệt nhất tranh giành từng tấc đất giữa ta và địch. Cuộc tổng tấn công vào thị xã và Thành Cổ hè 1972 có ngày máy bay Mỹ trút xuống đây hơn 7.000 tấn bom, dội hơn 10 vạn quả đại bác. Đơn vị e84 được giao nhiệm vụ hoạt động trên các địa bàn Lập Thạch 1, Lập Thạch 2, Đại Áng, Trung Chí xã Triệu Lễ huyện Triệu Phong. Có những lần người chỉ huy phải mạo hiểm quyết đoán di chuyển pháo tới sát nách địch, chế ngự hỏa lực địch, đánh chặn chi viện, phối hợp nhịp nhàng cùng các đơn vị bộ binh f312, e308, f320, e bộ binh 27 đánh bại âm mưu tái chiếm Thành Cổ nhằm gây sức ép với ta trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris.

Ôi! Cái tên “Bùi Ngọc Đủ” và “Đồi không tên” đã đi vào sách giáo khoa học sinh. Tiểu đội Bùi Ngọc Đủ - Đơn vị Anh hùng, và Bùi Ngọc Đủ - Anh hùng Lực lượng vũ trang khi ấy thuộc Đại đội 10 do Đại tá Trần Xuân Lũng đang ngồi bên tôi đây làm chính trị viên phó. Nhạc sĩ Huy Thục đã viết bài ca sống mãi với thời gian “Dòng suối La La”, mà hôm nay, tốp ca nữ cựu chiến binh B5 Đường 9 khu vực phía Bắc của Trần Xuân Lũng đã tới cuộc hội ngộ cựu chiến binh Thạch Thất để hát mừng đồng đội. Lời ca ấy mỗi lần nghe không cầm được xao xuyến:

    “Ôi con suối La La / nước trong xanh hiền hòa

    Đang bay bổng lời ca / chảy xuôi về  Cam Lộ…

    Chảy quanh đồi không tên / nay đồi đã mang tên

     Tiểu đội Bùi Ngọc Đủ / Người Dũng sĩ diệt Mỹ…

Trong buổi Lễ trao tặng Kỷ niệm chương Bảo vệ Thành Cổ cho 80 cựu chiến binh còn sống, họ đã dành ít phút lặng đi mặc niệm tưởng nhớ trên 20 đồng ngũ đã hy sinh anh dũng nằm lại Quảng Trị nay được truy tặng. Một luồng khí nóng xộc lên cay sống mũi tôi. Có chiến sĩ nào tới giờ vẫn chưa tìm thấy xác? Như cậu em vợ tôi mà người thân trong họ tộc lúc nào cũng lẩn khuất tâm tưởng sống với người đã khuất, mà người đã khuất thì lưu lại trong trí nhớ người còn sống mãi mãi ở tuổi 20 trên mép còn lún phún lông tơ. Cứ đi dò tìm tin hài cốt như tìm kim đáy bể. Cứ nuôi hy vọng và đợi chờ. Bởi giữa tháng tư rồi có tin một gia đình ở thị xã Quảng Trị đào móng xây nhà đã phát lộ 8 bộ hài cốt. Vẫn có lý do để đợi để chờ.

40 năm liệu đã đủ cho nỗi đau chìm sâu?  Hận thù thì khép lại. Nỗi đau chìm sâu thì chưa thể.

Gần nhà tôi ở có một chị giáo viên đã nghỉ hưu. Cứ yên trí là vậy. Hơn năm lại đây thấy chị thỉnh thoảng lại bận bộ áo váy quân phục khi xanh lá cây khi màu kem sáng quân hàm quân hiệu ngù vai quai thao đeo huân - huy chương đầy ngực cứ như văn công quân đội. Mới vỡ nhẽ chị từng ở một đơn vị quân y trong kháng chiến chống Mỹ, rồi sau đó mới chuyển về học đại học sư phạm. Chị thường xuyên gặp gỡ, họp mặt với đồng đội cũ ríu ra ríu rít như lớp trẻ. Lúc xe máy khi ô tô đi giao lưu với các Hội CCB gần thì  trong quận Hoàn Kiếm, sang Gia Lâm, xa thì lên tận Phú Thọ, Thái Nguyên hoặc xuống Hải Dương, Chí Linh, Hải Phòng.

Một lần chị sang tôi nhờ máy xem một đĩa ca nhạc, thì ra bấy nay chị và đồng đội thường vắng nhà đi biểu diễn văn nghệ giao lưu với các Hội CCB ở các tỉnh đã một thời chiến đấu trên cùng Mặt trận B5 Đường 9. Hôm qua, nhóm chị cho tôi theo xuống Ninh Bình thăm một đồng đội cũ B5 Đường 9. Anh tên Bùi Đức Lợi, từng giữ chức đại đội trưởng Đại đội 3 Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 101 Sư 312. Anh nhắn các chị xuống nhà anh ăn cá, cá nuôi hồ trang trại. Gặp, anh trách sao xuống ít thế, có 8 người thôi à. Bữa trưa cơm thổi ít để ăn vã cá cho đã. Anh nhấn đi nhấn lại đây là cá sạch. Rau nhà trồng cũng sạch. Chị hàng phố với tôi cứ xuýt xoa cho con trai con dâu anh lăng xăng phục vụ khách vất vả.

Chúng lại cảm ơn khách của bố đã về thăm nên bố chúng khỏe hẳn lên mới xin ra viện hôm qua. Thì ra anh thèm gặp đồng đội. Thèm da diết. Cho tới khi anh nâng chén rượu thuốc nghiêng nghiêng mời, tôi mới biết anh hỏng một mắt trái. Anh kể trận đánh vào cứ điểm nhà thờ ở một làng gần thị xã Quảng Trị một đêm đồng đội anh chết 90 người. Trong số hơn 200 thương binh, thì anh hỏng một mắt. Hình như nơi mắt phải nước mắt anh rưng rưng. Giống như hôm truy tặng Kỷ niệm chương Bảo vệ Thành Cổ cho hơn 40 CCB e84 ở Thạch Thất đã hy sinh, khi những người còn sống dành phút mặc niệm mắt họ cũng rưng rưng như thế. Vậy thì sao nỗi đau có thể chìm sâu?

Chưa bao giờ như bây giờ các Hội CCB sinh hoạt sôi nổi rộng khắp. Nơi phường tôi ở cũng thế. Khao khát gặp nhau giao lưu như thời cùng quân ngũ chừng như không có gì thay thế được. Và những chuyến tập hợp nhau góp tiền lương hưu ít ỏi thuê xe trở lại thăm chiến trường xưa cứ rộn rã như đi hành hương vậy. Gặp nhau, chuyện cũ chiến trường kể lại, kỷ niệm là xương là máu, là cứu đồng đội, là gom xác vội vùi chôn đồng đội, toàn những hoài niệm bất diệt, da diết như ca từ bài hát “Đồng đội ơi”:

       “Tôi gọi mãi mà đồng đội không thưa

          Mà mưa cứ rơi gió cứ gào cứ thét

          Mây trắng bay và bướm trắng chập chờn

          Hương khói trắng lòng ta trắng lặng…”

Tôi không được là đồng đội của các CCB B5 Đường 9 Quảng Trị. Nhưng cảm nhận được những gì xôn xao trong lòng họ. Họ không nói tới óan thù. Chỉ hằng nhớ thương đồng đội. Thèm gặp lại nhau đôi khi chỉ là để hát cho nhau nghe hoặc uống cốc bia tào lao chuyện cũ. Giống như anh cựu chiến binh B5 Đường 9 Bùi Đức Lợi ở Ninh Bình nắc nỏm nhắn đồng đội xuống chỉ để ăn với nhau một bữa cơm cá nhà nuôi và rau nhà trồng. Tôi ghi chép lại những dòng này mà lòng cũng rưng rưng trên từng con chữ./.