Nguy cơ phá sản thị trường thép

Theo hanoimoi.com.vn

Nhiều doanh nghiệp (DN) sản xuất kinh doanh (SXKD) thép đang đứng trước nguy cơ phá sản do thị trường bất động sản còn trầm lắng, thép Trung Quốc tràn vào lấn át thép "nội", đồng thời phải đối mặt với hàng loạt thách thức áp dụng thuế chống bán phá giá đối với thép xuất khẩu.

 Nguy cơ phá sản thị trường thép
Thị trường thép trong nước đang gặp nhiều khó khăn. Nguồn: hanoimoi.com.vn
Đây là bài toán chưa có lời giải, bởi ngành thép vốn đã khó khăn về nguồn vốn lại càng khó khăn hơn khi SXKD ngày càng đình trệ.

Trong tình trạng như vậy, nhưng một loạt chính sách sắp đưa vào áp dụng như tăng giá điện riêng cho ngành thép, xi măng, rồi đổi mới công nghệ chuẩn, cùng với Châu Mỹ, Châu Âu đang áp dụng thuế chống bán phá giá đối với thép xuất khẩu càng khiến các DN sản xuất thép có thể sẽ lâm vào phá sản.

Gói hỗ trợ bất động sản 30.000 tỷ đồng là tia hy vọng cho ngành thép thoát ra khỏi tình trạng bế tắc, nhưng đến nay thị trường chưa có gì khởi sắc, thậm chí còn có chiều hướng xấu, nhiều DN đã, đang trước ngưỡng phá sản.

Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), riêng mặt hàng thép xây dựng tháng 6 sản xuất đạt 376.125 tấn, giảm 4,72% so với tháng 5; tiêu thụ khoảng 350.945 tấn, giảm 9,2% so với tháng 5. Tính chung 6 tháng, các DN trong VSA sản xuất được hơn 2,2 triệu tấn, giảm 2,08% so với cùng kỳ năm 2012. Tuy nhiên, tổng số thép bán ra đạt gần 2,3 triệu tấn, tăng 1,52% so với 6 tháng đầu năm 2012. Tuy nhiên, con số đó không nói nên điều gì, bởi trượt giá đầu vào cho sản xuất cùng với giá cả tiêu dùng thị trường đều tăng cao.

Do không tiêu thụ được trong thời gian dài, các DN thép đã sản xuất cầm chừng. Sản phẩm thép xây dựng tính đến 30/6/2013 tồn kho khoảng 326.947 tấn, kéo theo lượng phôi thép tính đến tháng 5/2013 tồn khoảng 500.000 tấn (cả phôi sản xuất trong nước và nhập khẩu). Lượng phôi thép tồn này đủ đáp ứng nhu cầu phôi cho các nhà máy cán thép trong nước. Tuy nhiên, khi một loạt các nhà máy như Gang thép Thái Nguyên, Việt Trung (Lào Cai), Tập đoàn Hòa Phát… đi vào hoạt động mà Nhà nước tiếp tục cho xuất khẩu thì lại phát sinh nguy cơ thiếu quặng, nhiên liệu cho sản xuất thép.

Theo đánh giá của Bộ Công thương, thời gian qua, ngành thép đã đáp ứng đủ, kịp thời về số lượng và chủng loại các sản phẩm thép cho nền kinh tế, không để xảy ra tình trạng thiếu thép. Sản xuất phôi thép, thép xây dựng, thép cán nguội, thép ống, tôn mạ và tôn phủ màu đã đáp ứng 100% nhu cầu sử dụng trong nước và đang hướng tới xuất khẩu một số sản phẩm.

Tuy nhiên, ngành thép còn bộc lộ một số tồn tại như chưa cân đối nhu cầu sản phẩm, dẫn tới việc có một số sản phẩm cung vượt xa so với cầu trong khi có nhiều sản phẩm phải nhập khẩu. Nhiều DN sản xuất thép với quy mô nhỏ, sử dụng công nghệ lạc hậu và chưa thân thiện với môi trường, đặc biệt là các chỉ số tiêu hao như tiêu hao than cốc (lò cao), điện năng và điện cực (lò điện hồ quang).

Với chức năng quản lý ngành, thời gian qua Bộ Công thương đã chỉ đạo triển khai các dự án đầu tư thượng nguồn, tăng năng lực sản xuất phôi thép từ quặng sắt, giảm phụ thuộc vào phôi thép và thép phế nhập khẩu, khuyến khích đầu tư một số dự án sản xuất thép tấm cán nóng (hiện nay mỗi năm nhập khẩu khoảng 3-4 triệu tấn sản phẩm này/năm).

Theo VSA, dù thị trường đình trệ, DN thép vẫn phải sản xuất để tạo việc làm cho lao động, cùng với đó vừa phải cạnh tranh với thép ngoại nhập, nên các DN SXKD thép phía Bắc liên tục giảm giá bán 300-500 đồng/kg, trong khi giá bán thép ở phía Nam có sự chênh lệch khá lớn. Điều đáng nói, trong khi các DN sản xuất thép phải ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng thì lượng thép nhập khẩu vẫn cao.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng lượng thép nhập khẩu vào Việt Nam của 5 tháng đầu năm nay đạt hơn 5,3 triệu tấn, kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 3,5 tỷ USD; trong đó, phôi thép là 175.408 tấn; thép tấm lá đen là hơn 2,1 triệu tấn; thép cuộn là 65.717 tấn; thép phế là hơn 1,2 triệu tấn. Trong khi, lượng thép xuất khẩu của Việt Nam cùng thời kỳ chỉ đạt hơn 1,2 triệu tấn, với kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Đây là "báo động đỏ", đòi hỏi sự can thiệp kịp thời bằng các chính sách thiết thực, tạo bình đẳng cho SXKD cho thị trường thép trong nước.