Quản lý tài sản nhà nước: Chặng đường 15 năm nhìn lại

Phạm Đình Cường Cục trưởng Cục quản lý Công sản

TCTC Online - Cục Quản lý công sản Bộ Tài chính vừa kỷ niệm 15 năm ngày thành lập (26/4/1995-26/4/2010). Sau 15 năm hoạt động, cán bộ công chức của Cục đã vượt mọi khó khăn, xây dựng nền tảng vững chắc cho công tác quản lý tài sản quốc gia, góp phần vào việc sử dụng TSNN tiết kiệm, có hiệu quả.

Hiến pháp năm 1992 quy định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn do Nhà nước đầu tư vào xí nghiệp, công trình thuộc các ngành, lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là TSNN, đều thuộc sở hữu toàn dân. Tài sản nhà nước (TSNN) là nguồn lực quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia; việc sử dụng TSNN tiết kiệm và hiệu quả có ý nghĩa quan trọng cả về kinh tế - chính trị - xã hội. Tuy nhiên, trong những năm đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác quản lý TSNN chưa thực sự được quan tâm, tình trạng sử dụng TSNN còn lãng phí, kém hiệu quả... phần nào làm suy giảm nguồn lực công phục vụ phát triển kinh tế của đất nước.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội giữa nhiệm kỳ của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), Chính phủ giao ngành Tài chính nhiệm vụ quản lý TSNN. Để triển khai nhiệm vụ nặng nề đó, Bộ trưởng Bộ Tài chính có Quyết định số 347TC/QĐ/TCCB ngày 26/4/1995 thành lập Cục quản lý Công sản (QLCS). Nhìn lại 15 năm hoạt động, chặng đường đã qua không hẳn chỉ là bằng phẳng thuận lợi mà cũng khá nhiều khó khăn, thử thách, thậm chí có những thời điểm hết sức khó khăn.

Những kết quả bước đầu

Những ngày đầu, với đội ngũ cán bộ mỏng về số lượng (28 người) và hầu như chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý tài sản, song bám sát sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, của Bộ, tập thể cán bộ, công chức của Cục đã phối hợp tốt với các Bộ, ngành và địa phương lăn xả vào việc để từ đó trưởng thành, vượt khó đi lên xây dựng nền tảng vững chắc cho công tác quản lý tài sản quốc gia, góp phần vào việc củng cố và xây dựng nền tài chính công ngày càng vững mạnh. Đến nay, Cục  đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng:

Thứ nhất, đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật giúp cho việc quản lý, sử dụng TSNN từng bước đi vào nề nếp, kỷ cương, kỷ luật, công khai minh bạch và có hiệu quả, được thể hiện trên các mặt:

- Về quản lý TSNN tại các cơ quan HCSN: Luật Quản lý, sử dụng TSNN lần đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 03/6/2008. Chính phủ đã tập trung chỉ đạo xây dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, tiêu chuẩn mua sắm phương tiện đi lại và các trang thiết bị phục vụ cho các cán bộ, công chức, viên chức. Đây là các căn cứ quan trọng để xây dựng và bố trí dự toán ngân sách cho đầu tư, mua sắm và kiểm soát chi tiêu, đảm bảo công bằng, hiệu quả, công khai, minh bạch. Thực tế cho thấy, sau khi các tiêu chuẩn, định mức, chế độ sử dụng TSNN được ban hành thì việc mua sắm tài sản vượt tiêu chuẩn, định mức, việc sử dụng TSNN lãng phí đã giảm đáng kể, tình trạng lạm dụng TSNN vào việc riêng cũng đã dần được khắc phục.

- Về quản lý đất đai: Quốc hội đã ban hành Luật Đất đai năm 1993 và được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1998, 2001. Đến năm 2003, Quốc hội đã ban hành Luật Đất đai mới để thay thế cho Luật Đất đai năm 1993. Theo đó, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định quy định cụ thể về thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư... Vấn đề quan trọng hơn là cơ chế quản lý tài chính đối với đất đai mà nền tảng là chế độ thu tiền sử dụng đất và thu tiền thuê đất đã chuyển đổi cơ bản theo hướng thị trường. Theo đó việc xác định giá đất đã chuyển từ áp đặt theo bảng giá do Nhà nước quy định sang định giá bởi các tổ chức độc lập theo cơ chế thị trường. Chính sách thu tiền sử dụng đất và thu tiền cho thuê đất đã trở thành công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình đối với đất đai, là công cụ đắc lực để huy động nguồn thu cho NSNN, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin - cho” bao cấp về đất đai, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất. Tiền sử dụng đất và tiền cho thuê đất có xu hướng ngày càng tăng (năm 1999 là 2.092 tỷ đồng, đến năm 2008 là 19.120 tỷ đồng); chiếm tỷ trọng lớn nhất trong thu NSNN từ đất đai, bình quân mỗi năm (từ 1999 - 2008) là 8.646 tỷ đồng, chiếm trên 80% trong số thu NSNN từ đất đai và 5,7% trong tổng số thu NSNN.

 

- Về quản lý tài nguyên, tài sản kết cấu hạ tầng, tài sản dự trữ quốc gia và TSNN tại doanh nghiệp: Nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này, Chính phủ đã trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Luật Khoáng sản, Luật Đê điều, Luật Dầu khí, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Di sản văn hoá, Luật Đường sắt, Luật Doanh nghiệp, Luật Tài nguyên nước, Pháp lệnh về Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, Pháp lệnh Dự trữ quốc gia... Theo đó, đã xác lập được các nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong quản lý, sử dụng TSNN ở những lĩnh vực này.

Thứ hai, Nhà nước đã thực hiện kiểm kê nắm được tổng quan về số lượng, giá trị và cơ cấu phân bố sử dụng TSNN trong khu vực hành chính sự nghiệp và TSNN trong các doanh nghiệp. Các Bộ và địa phương đã bước đầu kiểm soát được việc sử dụng TSNN, hạn chế dần việc sử dụng tài sản không đúng mục đích, lãng phí, thất thoát.

Cơ chế quản lý TSNN đang từng bước được hình thành theo tinh thần đổi mới, gắn với thị trường. Theo đó, các hoạt động mua, bán TSNN, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê đất dần theo sát giá thị trường, cơ chế này cho phép huy động được một bộ phận quan trọng nguồn lực tiềm năng cho đầu tư phát triển; đồng thời góp phần ngăn chặn tiêu cực, chống thất thoát lãng phí. Bên cạnh đó còn từng bước thực hiện công khai hoá việc sử dụng TSNN, tạo lập cơ sở, môi trường pháp lý căn bản cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài sản. Đây là những nội dung rất cơ bản để Nhà nước thực hiện quản lý đầu tư, xây dựng mới, cải tạo, mua sắm, điều chuyển, thu hồi, bán, chuyển đổi hình thức sở hữu và thanh, xử lý TSNN.

Thứ ba, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện sắp xếp lại nhà, đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đúc rút kinh nghiệm để triển khai ra áp dụng trên phạm vi cả nước. Theo chính sách này, toàn bộ trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh được bố trí, sắp xếp lại theo nguyên tắc: Di dời các cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường ra các khu công nghiệp, khu kinh tế. Cơ quan, đơn vị được chủ động sắp xếp lại nhà, đất được giao theo đúng chức năng, nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của địa phương; số nhà, đất dôi dư được phép bán, chuyển nhượng hoặc chuyển mục đích sử dụng, từ đó đã tạo ra nguồn tài chính mới để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc hoặc được sử dụng để đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh mới, đầu tư chiều sâu, tăng thêm năng lực sản xuất kinh doanh; giành quỹ đất có lợi thế thương mại cho hoạt động kinh doanh, thương mại, dịch vụ, du lịch; đồng thời giành quỹ đất để xây dựng các công trình phúc lợi xã hội như trường học, bệnh viện và các công trình phúc lợi quan trọng khác của địa phương... góp phần chỉnh trang quy hoạch lại đô thị theo hướng hiện đại. Kết quả ban đầu cho thấy chính sách này mang lại kết quả quan trọng cả về kinh tế và xã hội.

Thứ tư, quản lý TSNN từ chỗ thụ động với công tác lập và chấp hành ngân sách nhà nước thì nay đã chủ động gắn với công tác lập và chấp hành ngân sách nhà nước, việc xây dựng dự toán ngân sách nhà nước được căn cứ trên cơ sở nhu cầu đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản phục vụ hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Đồng thời, TSNN bước đầu đã gắn giá trị với hiện vật, đảm bảo phù hợp với quá trình đầu tư xây dựng mới, mua sắm và sử dụng tài sản.

Cuối cùng, thực hiện phân cấp rõ ràng nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với TSNN giữa Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp; giữa các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về tài sản và các cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng TSNN; đồng thời xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp trong quản lý, trách nhiệm của từng đơn vị trong sử dụng tài sản đảm bảo cho việc sử dụng TSNN đi dần vào nề nếp, kỷ cương và minh bạch.

Những mặt hạn chế

Bên cạnh kết quả đã đạt được nêu trên, công tác quản lý TSNN cũng còn một số tồn tại, yếu kém chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu mà Đảng và Nhà nước giao cho, đó là:

Một là, pháp luật về quản lý đối với một số lĩnh vực tài sản còn chưa đủ, thiếu đồng bộ, chưa điều chỉnh bao quát hết các quan hệ về tài sản trong kinh tế thị trường, dẫn đến thiếu môi trường pháp lý minh bạch, đầy đủ để quản lý TSNN một cách có hiệu quả, tiết kiệm; ở một số nơi còn xảy ra tình trạng sử dụng lãng phí, thất thoát TSNN, gây bức xúc trong công luận và dư luận.

Hai là, mặc dù đã có nhiều tiến bộ song việc nhìn nhận TSNN (nhất là đất đai) như một nguồn lực tài chính thực thụ vẫn chưa được thừa nhận ở một số ngành, địa phương, đơn vị hoặc nếu có được nhận thức đúng thì cơ chế phát huy nguồn lực này vẫn còn hạn chế và thiếu đồng bộ.

Ba là, vẫn còn tình trạng sử dụng TSNN sai mục đích, lãng phí. Một bộ phận đất đai, trụ sở làm việc của các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, nhất là tại các đô thị còn bị sử dụng sai mục đích như: bỏ trống, cho thuê, sử dụng để kinh doanh, dịch vụ... Một số trường hợp thực hiện mua sắm, điều chuyển, thanh lý TSNN sai thẩm quyền, sai tiêu chuẩn, chế độ dẫn đến thất thoát TSNN. Trong đầu tư xây dựng mới, mua sắm tài sản: Tình trạng đầu tư, mua sắm vượt tiêu chuẩn định mức, vượt mức giá cho phép vẫn còn tồn tại mặc dù đã được hạn chế đáng kể. Tình trạng sử dụng TSNN lãng phí, sai mục đích còn lớn.

Bốn là, kỷ cương phép nước chưa thật nghiêm minh, chế tài xử lý những sai phạm về quản lý, sử dụng trụ sở làm việc; mua sắm sử dụng xe ô tô công, trang thiết bị... còn chưa kịp thời, có trường hợp còn dùng quỹ công để bồi thường thiệt hại do việc mua sắm, sử dụng tài sản sai dẫn đến tác dụng răn đe bị hạn chế.

Năm là, tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về TSNN còn thiếu tính chuyên nghiệp, bị động. Quy trình nghiệp vụ quản lý chưa khoa học và lạc hậu. Tổ chức bộ máy cơ quan thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về TSNN chưa được chú trọng kiện toàn.

Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại

Nhưng hạn chế tồn tại nêu trên băt nguồn cả từ những nguyên nhân khách quan, cả những nguyên nhân chủ quan, bao gồm:

Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, do trải qua quá trình lịch sử lâu dài, trong đó hai cuộc chiến tranh với các hệ quả rất nặng nề. Sự chuyển giao chính quyền kéo theo sự chuyển giao tài sản mà phần lớn là chuyển giao bắt buộc được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, với hình thức sử dụng đa dạng. Vì vậy, một phần lớn tài sản không có giấy tờ gốc, đối với trụ sở làm việc thì ngay cả diện tích sử dụng cũng không được xác định rõ ràng. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc giải phóng đất nước, các nguồn lực tài chính được tập trung chủ yếu để phục vụ nhiệm vụ chiến đấu giải phóng dân tộc; chưa có điều kiện để đầu tư xây dựng, mua sắm TSNN. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, các cơ quan nhà nước phải sơ tán về nơi an toàn, hồ sơ, tài liệu về TSNN bị hư hỏng, thất lạc. Ở miền Nam, để đáp ứng nhu cầu về chỗ ở cho cán bộ miền Bắc được điều động vào công tác, việc bố trí nơi ăn chốn ở cho cán bộ tại cơ quan là giải pháp tình thế, và dẫn đến hậu quả rất nặng nề trong việc sắp xếp lại trụ sở làm việc ngày nay.

Thứ hai, một thời gian dài việc quản lý TSNN trong khu vực HCSN ảnh hưởng bởi cơ chế tập trung bao cấp. Tình trạng lãng phí TSNN trong khu vực HCSN đã là căn bệnh trầm kha. Khái niệm: tài sản của Nhà nước, của tập thể, của ngân sách là “của chùa, tiền chùa“ đã mặc nhiên tồn tại. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và xu hướng hội nhập quốc tế thì cơ chế quản lý TSNN trong khu vực HCSN chưa bắt nhịp kịp thời. Do vậy, cơ chế chính sách ban hành thiếu tính thực tiễn, việc buông lỏng quản lý, thiếu sự kiểm tra kiểm soát đối với TSNN trải qua thời kỳ dài của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã thành thói quen tập quán; do đó việc chuyển biến cả về tư tưởng, nhận thức và tổ chức thực hiện là cả một quá trình lâu dài.

Nguyên nhân chủ quan

Một là, chính quyền các cấp chưa thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước đối với TSNN:

 - Một số cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể các cấp chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác quản lý TSNN. Việc nhận thức về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý TSNN chưa tương xứng với bản chất của nó nên chưa ban hành đồng bộ, kịp thời các cơ chế, chính sách để thống nhất quản lý TSNN và thiếu quyết tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.

- Chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương, người đại diện chủ sở hữu TSNN chưa nắm được về số lượng và giá trị TSNN do cấp mình quản lý. Các CQHC, ĐVSN  trực tiếp quản lý, sử dụng TSNN tự do, tuỳ tiện trong việc bố trí sử dụng tài sản, chưa tự giác chấp hành đầy đủ chế độ báo cáo sự biến động của tài sản và thậm chí chưa tổ chức theo dõi về số lượng, giá trị của các tài sản được giao, thiếu nghiêm túc trong việc triển khai thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý TSNN. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý ở các cấp, các ngành chưa gương mẫu, yếu kém về năng lực chuyên môn, tha hoá về phẩm chất đạo đức, thiếu trách nhiệm hoặc lợi dụng chức quyền để tham nhũng, lãng phí đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng và thiệt hại lớn.

Hai là, công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các cơ chế, chính sách về quản lý TSNN chưa được thực hiện nghiêm túc. Cơ quan quản lý công sản chưa thực hiện triệt để vai trò kiểm tra, kiểm soát về việc thực hiện chính sách chế độ cũng như kiểm tra định kỳ thường xuyên để phát hiện những sai phạm trong thực thi chính sách và tổ chức thực hiện của các đơn vị trực tiếp sử dụng TSNN. Thậm chí ở một số nơi, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng, còn ít, thậm chí có nơi nhiều năm chưa được các cơ quan chức năng thanh tra, kiểm tra. Các vi phạm trong quản lý, sử dụng TSNN chưa được phát hiện và xử lý kịp thời hoặc các trường hợp sai phạm đã được xử lý, song chưa được xử lý dứt điểm, thiếu kiên quyết hoặc có sai phạm đã xử lý nhưng còn mang nặng tính hình thức, hành chính nên tác dụng giáo dục và ngăn chặn còn hạn chế. Ví dụ như: tính đến cuối năm 2004, các Bộ, ngành, địa phương mới xử lý diện tích trụ sở sử dụng sai mục đích (thu hồi, sắp xếp lại) được 34,75% diện tích xây dựng vượt tiêu chuẩn, định mức còn chưa xử lý tới 62,25%.

Vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng và của mọi người dân chưa được phát huy đầy đủ; việc công khai minh bạch chưa được thực hiện tốt ở các cấp, các ngành, trong từng cơ quan, đơn vị.

Ba là, chuyển biến nhận thức về quản lý TSNN của hệ thống các cơ quan Nhà nước nói chung còn chậm

Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý TSNN còn hạn chế về mặt tư duy bao cấp, nhận thức về việc quản lý TSNN còn đơn giản, vì vậy cơ chế quản lý chưa có những bước đột phá phù hợp với cơ chế thị trường.

Qua một kết quả điều tra xã hội học cho thấy có ba nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hạn chế và tồn tại của cơ chế quản lý TSNN, trong đó nguyên nhân chính là do công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính các cơ chế, chính sách về quản lý tài sản công (ý kiến của 81,6 % số người được hỏi), do chuyển biến nhận thức về quản lý tài sản công trong khu vực HCSN của hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung còn chậm (64% số người được hỏi); do chính quyền các cấp chưa thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước (55,2 % số người được hỏi).

2. Định hướng đổi mới công tác quản lý công sản giai đoạn 2010-2011

Nhiệm vụ đặt ra với công tác quản lý công sản còn hết sức nặng nề. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới, nâng công tác quản lý tài sản công lên một tầm cao mới, theo những định hướng chính như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản  công:

- Ban hành đồng bộ, thống nhất hệ thống văn ban triển khai thi hành Luật Quản lý, sử dụng TSNN; đặc biệt chú trọng hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSNN phù hợp với điều kiện mới đảm bảo yêu cầu tiết kiệm, chống lãng phí và phục vụ được nhu cầu công tác.

- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thống nhất về quản lý TSNN thuộc kết cấu hạ tầng theo nguyên tắc: Mọi TSNN thuộc kết cấu hạ tầng đều phải được Nhà nước giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng; có phân công, phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước và trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan; đầu tư xây dựng và sử dụng đúng mục đích; bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ theo chế độ quy định...

- Hoàn thiện chính sách tài chính đối với đất đai, bao gồm sửa đổi, bổ sung Luật đất đai, xây dựng Luật thuế sử dụng đất, sửa đổi, bổ sung chính sách thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, hướng dẫn cơ chế điều tiết phần giá trị tăng thêm của đất do Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng...

Thứ hai, đổi mới cơ chế quản lý TSNN tại các đơn vị sự nghiệp, tiến tới chuyển các đơn vị sự nghiệp sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp; Quy định cơ chế quản lý, sử dụng TSNN giữa đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính và đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính do phù hợp với đặc điểm của từng loại hình.

Thứ ba, đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước, hoàn thành trước ngày 31/12/2010 với các mục tiêu cơ bản là:

- Tiếp tục sử dụng hệ thống công sở phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất;

- Chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất tạo Quỹ đất mới cho các mục đích hiệu quả hơn (thương mại, nhà ở, công cộng…);

 - Tạo ra nguồn lực mới để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.

Thứ tư, trên cơ sở rút kinh nghiệm từ thí điểm mua sắm TSNN theo phương thức tập trung để nghiên cứu, xây dựng cơ chế thống nhất trên cả nước. Đồng thời, thiết lập hệ thống các công cụ hỗ trợ cho việc thực hiện mua sắm tập trung.

Thứ năm, hiện đại hoá công tác quản lý công sản, xây dựng, cập nhật và hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về TSNN.

Thứ sáu, thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng TSNN.

Thứ bảy, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng TSNN tại các cơ quan, đơn vị, tổ chức.

Cuối cùng, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý công sản từ Trung ương đến địa phương. Với nhiệm vụ nặng nề như vậy, tổ chức của Cục Quản lý Công sản cần được sắp xếp theo hướng chuyên sâu hơn. Đặc biệt, cần nhanh chóng phát triển Trung tâm cơ sở Dữ liệu về tài sản nhà nước để có thể bao quát một cách hệ thống toàn bộ hệ thống tài sản nhà nước, cập nhật được số liệu thông qua các chương trình sử dụng công nghệ thông tin hiện đại. Công khai và minh bạch hoá các số liệu về tài sản và cung cấp thông tin tài sản nhà nước phục vụ chủ trương “vốn hoá” TSNN. Tại các Bộ, ngành và các địa phương cần có tổ chức chuyên về quản lý công sản, các chi cục hoặc các phòng độc lập, các trung tâm. Bên cạnh đó cần nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý TSNN thông qua chương trình đào tạo ban đầu, đào tạo lại và cập nhật kiến thức hàng năm.         

Để thực hiện được những nhiệm vụ hết sức nặng nề trên đây, cần phải có quyết tâm và biện pháp tổ chức thực hiện chặt chẽ. Chúng tôi hy vọng và tin tưởng rằng, phát huy kết quả đạt được trong 15 năm (1995 - 2010), hệ thống quản lý công sản sẽ phát triển không ngừng và cùng với toàn ngành tài chính nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoan mới./.