Tác động của AJCEP tới thương mại và đầu tư Việt Nam – Nhật Bản
Tác động tích cực
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) là hiệp định toàn diện, chứa đựng các quy tắc căn bản về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và các hoạt động hợp tác kinh tế khác. Trong đó, quan trọng nhất là các cam kết về lộ trình giảm thuế, tiến tới loại bỏ phần lớn thuế nhập khẩu (NK) giữa các nước ASEAN và Nhật Bản. Theo Hiệp định này, Việt Nam cam kết loại bỏ thuế quan đối với 82% giá trị NK từ Nhật Bản trong 16 năm và 69% giá trị NK trong vòng 10 năm. Đổi lại, Nhật Bản loại bỏ thuế quan đối với gần 94% giá trị NK từ Việt Nam trong vòng 10 năm. Khi hiệp định có hiệu lực, Nhật Bản ngay lập tức loại bỏ thuế quan đối với 7.287 dòng thuế, tương đương 80% biểu thuế. Đã có 3.718 thương vụ xuất nhập khẩu (XNK) thông qua Hiệp định AJCEP, với kim ngạch 17 tỷ USD, đứng đầu trong số các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và Hiệp định Thương mại khu vực (RTA) mà Nhật Bản đã ký kết. Trong đó, có rất nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam như dệt may, da giày, thủy sản…
Như vậy, có thể khẳng định AJCEP là một xúc tác quan trọng, thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư giữa Nhật Bản và Việt Nam. Thông qua các hoạt động cụ thể như:
- Khai thác tối đa ưu thế xuất khẩu (XK) đối với mặt hàng nông thuỷ sản. Hàng Việt Nam sẽ tạo được một vị thế mới trong XK ra thế giới. 61 mặt hàng chiếm 70% giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế nhập khẩu 0% ngay khi Hiệp định AJCEP có hiệu lực và 144 mặt hàng chiếm 83% giá trị xuất khẩu sẽ không còn chịu thuế nhập khẩu trong vòng 10 năm.
- AJCEP mang lại nhiều cơ hội tăng trưởng XK cho Việt Nam vì đa số các mặt hàng được giảm thuế nhiều nhất cung là các mặt hàng XK chủ lực sang thị trường Nhật Bản. Ngay khi Hiệp định có hiệu lực, 95% số dòng thuế chiếm đến 94,5% giá trị XK sản phẩm công nghiệp XK từ Việt Nam sang Nhật Bản sẽ có mức thuế 0%. Trong thời gian 10 năm, 98% số dòng thuế chiếm 98% giá trị thương mại các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam sẽ không bị áp thuế NK.
- Tăng sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. Khi Nhật Bản áp dụng thuế NK 0% đối với sản phẩm dệt may của Việt Nam XK sang Nhật Bản, ngành Dệt may sẽ đạt lợi ích rất lớn, vì chỉ tính riêng XK sản phẩm này đã đạt 700 triệu USD.
- Các DN trong nước có cơ hội tiếp cận các máy móc, thiết bị, nguyên liệu chất lượng cao từ Nhật Bản để phục vụ cho hoạt động sản xuất, đầu tư. Việc giảm thuế trong các nhóm hàng nguyên vật liệu, thiết bị cũng sẽ là động lực quan trọng để các DN Nhật Bản mở rộng đầu tư tại Việt Nam.
- Nguồn vốn đầu tư ODA mà Nhật Bản dành cho Việt Nam ngày càng tăng. Tính đến năm 2012, Nhật Bản có 1113 dự dán đầu tư với tổng số vốn đăng ký hơn 17 tỷ USD, chiếm 10,675 trong tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy, các DN Việt Nam ngày càng được tiếp cận với nguồn vốn ODA một cách dễ dàng hơn.
Tác động tiêu cực
Ngoài những lợi ích mà Hiệp định đã mang lại ở trên, thì nó cũng làm nảy sinh một số rủi ro. Cụ thể:
- Khi tham gia ký kết AJCEP, Việt Nam và các nước đối tác phải cùng nhau thực hiện cam kết giảm thuế đối với những hàng hóa nằm trong danh mục giảm thuế theo lộ trình. Khi đó, cơ hội XK hàng hóa vào các nước thành viên của Việt Nam sẽ thuận lợi hơn. Tuy nhiên, một tác động ngược lại của AJCEP là làm tăng nguy cơ nhập siêu do Việt Nam cũng phải thực hiện nghĩa vụ giảm thuế theo lộ trình. Điều này sẽ khiến hàng hóa trong nước phải chịu nhiều áp lực cạnh tranh hơn bởi hàng hóa NK từ các nước thành viên trong AJCEP được hưởng mức thuế ưu đãi thấp.
- Việc tham gia nhiều hiệp định khác nhau sẽ dẫn tới gánh nặng về thủ tục hải quan, quy tắc xuất xứ, thành lập các nhóm công tác khác nhau, làm suy giảm nguồn lực và làm tăng gánh nặng chi phí giao dịch. Một vấn đề nảy sinh từ những khu vực thương mại tự do là cần đảm bảo hàng hóa XK từ khu vực này được sản xuất bởi một hoặc nhiều nước thành viên chứ không phải được sản xuất và NK từ một nước thứ 3 rồi kê khống rằng được sản xuất trong khu vực. Để đề phòng trường hợp này, quy tắc về xuất xứ đã được xây dựng, trong đó yêu cầu cụ thể hàm lượng giá trị được sản xuất cung cấp bởi một thành viên. Yêu cầu và thủ tục hành chính liên quan đến quy tắc về xuất xứ khác nhau tùy thuộc vào từng hiệp định thỏa thuận. Chính những quy tắc về xuất xứ mang tính hạn chế, đôi khi không nhất quán này đã gây tác động tới việc thực thi ưu đãi cho các thành viên trong khối.
- Rào cản kỹ thuật đối với hàng nông sản, thủy sản. Vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề quan trọng nhất trong XK hàng nông sản, thủy sản, nhất là vào thị trường Nhật Bản. Kể từ ngày 29/5/2006, Nhật Bản đã thực hiện Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm (sửa đổi) đối với tất cả các lô hàng thực phẩm NK vào Nhật Bản, thắt chặt quy định và bổ sung một số loại dư lượng hóa chất không được phép có trong thực phẩm và tiếp tục nâng mức hạn chế dư lượng hóa chất cho phép. Tôm XK của Việt Nam đã bị kiểm tra chất lượng an toàn thực phẩm 100%. Đối với rau quả, Luật Bảo vệ thực vật của Nhật Bản liệt Việt Nam vào danh sách các nước có dịch bệnh ruồi đục quả, nên Việt Nam không được phép XK quả tươi có hạt như thanh long, nhãn, xoài, đu đủ, dưa chuột, cà chua…
- Những vấn đề về tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm. Hàng công nghiệp chế tạo của Việt Nam XK sang Nhật, gặp một số khó khăn về tiêu chuẩn kỹ thuật vì các tiêu chuẩn công nghiệp của Nhật (JIS) có nhiều điểm riêng biệt khác với tiêu chuẩn quốc tế. Người tiêu dùng Nhật Bản có yêu cầu khắt khe về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn một chút cho những sản phẩm có chất lượng tốt.
- Việc tiến hành khảo sát và tiếp cận thị trường Nhật Bản cũng khá tốn kém đối với DN vừa và nhỏ. Do yêu cầu cao về chất lượng, các DN cần đầu tư để cải tiến nhiều khâu: Từ thiết kế, kỹ thuật, bảo quản, vận chuyển đến quản lý chất lượng. Đồng thời, hàng hóa vào thị trường Nhật Bản phải qua nhiều khâu phân phối lưu thông, nên đến tay người tiêu dùng giá cả khá cao so với giá NK.
- Khả năng mâu thuẫn về chính sách. Trong FTA, một thành viên có thể áp đặt thuế bổ sung đối với hàng hóa NK vì bất kỳ lý do nào đó, mặc dù việc này có thể dẫn tới hành động trả đũa của những thành viên bị ảnh hưởng. Trong khi, theo WTO, các thành viên phải tuân thủ cam kết về mức thuế ràng buộc và không được phép nâng mức thuế này cao hơn mức cam kết, khi mức thuế áp dụng thấp hơn nhiều so với mức ràng buộc, một thành viên có thể nâng mức thuế này lên đáng kể và tạo nên sự không chắc chắn trong chính sách thương mại.
Nhật Bản hiện có khoảng 2.209 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn 35,1 tỷ USD, dẫn đầu trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Nhật Bản cũng đã ký kết 2,4 tỷ USD và giải ngân 1,6 tỷ USD vốn ODA cho Việt Nam.
Một số gợi ý chính sách cho Việt Nam
Không riêng Việt Nam, Hiệp định AJCEP và những hiệp định tương tự cũng có thể mang tới nhiều lợi ích cho cả khu vực Đông Á. Nếu khu vực này sẵn sàng chia sẻ ý kiến về việc thiết lập một Cộng đồng kinh tế Đông Á như là một mục tiêu thiết yếu và ở đó không có những toan tính về chính trị. Vậy, các nước trong ASEAN cũng như Việt Nam cần làm gì để khai thác tối đa lợi ích từ Hiệp định AJCEP?
Đối với Nhà nước
Việc tham gia AJCEP sẽ làm tăng thêm nhiều nghĩa vụ của Việt Nam về cải cách thể chế kinh tế. Đồng thời, để thực hiện tiếp các cam kết trong Hiệp định đã ký, Việt Nam sẽ phải tiếp tục giảm thuế, đòi hỏi sự cạnh tranh ở mức độ cao hơn. Do đó, Nhà nước cần tập trung vào một số giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, sửa đổi chính sách đầu tư nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ để phục vụ cho nhu cầu trong nước, giảm NK đầu vào trung gian, tăng hàm
lượng nội địa và giá trị gia tăng cho hàng XK. Điều chỉnh dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng thu hút có chọn lọc, chấm dứt tình trạng ưu đãi tràn lan, hạn chế dòng vốn này vào lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng sản, lĩnh vực kinh doanh bất động sản, một số lĩnh vực dịch vụ giải trí… Xây dựng và triển khai thực hiện tốt chương trình tái cấu trúc cơ cấu đầu tư, trong đó trọng tâm là đầu tư công. Chính sách ưu đãi đầu tư cần tập trung khuyến khích cao hơn cho lĩnh vực có khả năng tăng năng lực và tạo sự lan tỏa như: Công nghiệp chế tạo, chế biến có sử dụng công nghệ cao, công nghệ tiết kiệm năng lượng, công nghệ thân thiện môi trường.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam và không gây xung đột với các cam kết trong các FTA mà chúng ta đã hoặc sẽ tham gia. Trong đó, cần tập trung hoàn thành Chương trình thực thi Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) giai đoạn 2011-2015; Xây dựng các tiêu chuẩn đối với hàng xuất khẩu; Xây dựng lộ trình hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô. Bên cạnh đó, ban hành quy định tiêu chuẩn DN được XK một số mặt hàng gắn với việc tạo ra liên kết lâu dài và ổn định giữa nhà XK và nhà sản xuất, chế biến. Đồng thời, gắn việc cấp phép cho các DN FDI mở cơ sở bán lẻ thứ hai với việc DN đưa hàng của Việt Nam bán trong hệ thống phân phối ở nước ngoài; Đặc biệt, hoàn thiện chính sách thương mại biên giới, để nâng cao hiệu quả hoạt động của các Khu kinh tế cửa khẩu và Khu hợp tác thương mại biên giới…
Thứ ba, cần chủ động điều chỉnh cơ cấu thị trường XNK và thị trường trong nước theo định hướng Chiến lược XNK hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2011-2020, định hướng đến năm 2030; Đề án Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến năm 2020 và các Chiến lược phát triển khác đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thứ tư, tiếp tục khai thác các lợi ích, các ưu đãi từ AJCEP và để phát triển nhanh XK và giảm nhập siêu. Đẩy mạnh XK hàng nông sản, dệt may, giày dép, đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ…vào thị trường Nhật Bản, để tận dụng cơ hội và chia sẻ rủi ro do đang tập trung quá lớn vào một thị trường. Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và các tập đoàn đa quốc gia của Nhật Bản, để tiếp nhận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia ngày càng sâu hơn vào các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Đối với doanh nghiệp
Một số khó khăn cụ thể mà các DN Việt Nam cần chú ý:
- Khai thác các ưu đãi do Hiệp định AJCEP mang lại, trong đó bám sát các lộ trình cắt giảm thuế quan đối với hàng XK chủ lực của Việt Nam vào Nhật Bản; Đồng thời, khắc phục những rào cản về kỹ thuật cũng như tuân thủ các quy tắc của hai Hiệp định này.
- DN Việt Nam cần tăng cường đầu tư, đổi mới dây chuyền, nâng cao chất lượng hàng hoá, giá thành cạnh tranh, để cạnh tranh được với hàng hoá cùng chủng loại đến từ các nền kinh tế khác; Nhanh chóng phát triển công nghiệp phụ trợ để nâng cao hàm lượng nội địa hoá.
- Tổ chức thu thập, phân tích, xử lý thông tin, hiểu biết tập quán kinh doanh, thị hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản. Người tiêu dùng Nhật Bản cũng yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm. Họ thường tìm hiểu kỹ đối tác trước khi quyết định làm ăn. Vì vậy, DN Việt Nam cần cung cấp những thông tin cần thiết cho khách hàng như giới thiệu công ty, sản phẩm, mẫu mã, bảng giá, khả năng cung cấp...
- Vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề quan trọng nhất trong XK hàng nông sản. Các DN Việt Nam cần nắm vững các quy định, tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm và thực tế tiến hành kiểm dịch tại Nhật sẽ giúp cho DN yên tâm về chất lượng sản phẩm, hạn chế hàng đã giao bị trả về, giảm tốn phí khi kiểm dịch.
- Trước khi tham gia các Hội chợ triển lãm tại Nhật Bản, cần chuẩn bị các thông tin sẽ đạt hiệu quả khi tiếp cận, đàm phán giao dịch với doanh nhân Nhật.
- Về mặt NK cần tìm hiểu kỹ để mang về những thiết bị, máy móc, vật tư phù hợp yêu cầu và trình độ sản xuất của Việt Nam.
- Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức VIETRADE và JETRO; Các Hiệp hội ngành hàng của Việt Nam, của Thương vụ Việt Nam tại Nhật; của cộng đồng người Việt ở Nhật Bản; trong điều kiện cho phép có thể mở Văn phòng đại diện tại Nhật Bản.
Tài liệu tham khảo:
1. Từ Thúy Anh và Tô Minh Thu (2010), “Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập Đông Á”, Lựa chọn để tăng trưởng bền vững, Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2010, NXB Tri thức, Hà Nội, trang 225-280;
2. Ngô Xuân Bình (Chủ biên), Quan hệ Nhật Bản - ASEAN: Chính sách và tài trợ ODA, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999;
3. Phạm Thị Thanh Bình (2008), Cộng đống Đông Á: Vai trò, tiến trình thành lập và những thách thức, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, N10, tháng 10;
4. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2008), FTA song phương của các nước ASEAN và tác động đến Cộng đồng kinh tế ASEAN và Cộng đồng ASEAN, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 5 (145);
5. Nguyễn Anh Thu (2012), “Đánh giá tác động của Hiệp định VJEPA đối với kinh tế Việt Nam”, đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tác động của hiệp định AJCEP tới quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
(Tài chính) Nhật Bản hiện là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Do đó, việc cắt giảm thuế theo lộ trình Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam. Yêu cầu đặt ra là phải có những ước tính về tác động của AJCEP, từ đó dự báo sớm, giúp doanh nghiệp giảm thiểu tác động xấu có thể xảy ra.
Xem thêm