Thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Việc thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Đảng, vừa đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) yêu cầu: “Đảng viên và tổ chức đảng phải là người gương mẫu nhất trong việc chấp hành mọi quyết định của Nhà nước”[1]. Đảng “bắt buộc các tổ chức đảng và đảng viên tôn trọng quyền hạn, trách nhiệm và các chế độ của cơ quan nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và các quyết định của Nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng”[2]. Từ Đại hội VII (1991) đến Đại hội IX (2001), Điều lệ Đảng đều thể hiện quan điểm Đảng “hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, nhưng chưa khẳng định đó là một nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng.
Đến Đại hội X năm 2006, nhận thức của Đảng về vấn đề Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật có bước phát triển mới. Từ thực tiễn xây dựng Ðảng qua quá trình đổi mới, Đảng rút ra bài học kinh nghiệm: “Phải xây dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Ðảng ở các ngành, các cấp. Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”[3]. Điều lệ Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X thông qua xác định: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[4] là một trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng.
Như vậy, Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật là một quan điểm lớn, nhất quán của Đảng, đã được nêu lên và thực hiện từ nhiều năm trước đây, đến Đại hội X, được phát triển thành một trong 5 nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng hiện nay. Sự cần thiết của nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Có thể thấy sự cần thiết của nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn chủ yếu sau:
Xuất phát từ vị trí, vai trò của Đảng, Nhà nước; bản chất của Hiến pháp và pháp luật trong điều kiện Đảng cầm quyền. Khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội thông qua việc đề ra đường lối, chính sách của Đảng; Nhà nước tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng thông qua chức năng quản lý Nhà nước. Hiến pháp, pháp luật chính là đường lối, chính sách của Đảng được thể chế hóa. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và cán bộ, đảng viên thực hiện đúng Hiến pháp, pháp luật chính là đã thực hiện sự lãnh đạo của Đảng.
Thực chất Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật chính là quá trình chấp hành, thực hiện đường lối và các nghị quyết của Đảng. Đảng ta khẳng định: “Trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo quản lý kinh tế và tổ chức đời sống, đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng được biến thành kế hoạch Nhà nước, thành pháp luật, mệnh lệnh, quy chế của Nhà nước. Vì thế, chấp hành kế hoạch, pháp luật, mệnh lệnh, quy chế của Nhà nước cũng chính là chấp hành đường lối và các nghị quyết của Đảng”[5].
Xuất phát từ yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Mọi tổ chức, cán bộ, công chức, công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp, pháp luật. Đảng lãnh đạo xây dựng Hiến pháp, pháp luật, nhưng một khi đã có Hiến pháp, pháp luật thì Đảng không những phải tôn trọng mà còn phải chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, pháp luật bình đẳng như mọi chủ thể chính trị khác.
Việc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật là phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật sẽ nâng cao tính độc lập, chủ động phát huy vai trò quản lý xã hội của Nhà nước, tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao tính nghiêm minh của Hiến pháp, pháp luật, góp phần thúc đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Việc thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Đảng, vừa đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với Đảng. Một mặt, bằng các quy định ở những văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, công nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; công nhận sự hoạt động hợp pháp của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên.
Từ sự thể chế hóa này, hoạt động của các tổ chức đảng được pháp luật bảo vệ, giúp Đảng giữ vững vị trí cầm quyền đưa đất nước phát triển theo con đường XHCN. Mặt khác, là đảng duy nhất cầm quyền, với việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật sẽ khắc phục các hiện tượng lệch lạc, tiêu cực trong hoạt động lãnh đạo của các tổ chức đảng, như: bao biện, làm thay, tuỳ tiện, chủ quan, ít chú ý đến pháp luật, giúp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy ở đâu, khi nào tổ chức đảng hoạt động theo hướng tôn trọng Hiến pháp, pháp luật thì có kết quả tốt, và ngược lại, khi nào, ở đâu chủ quan, duy ý chí, coi nhẹ luật pháp thì vai trò và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đều bị hạn chế, thậm chí phạm sai lầm nghiêm trọng.
Thời gian qua, tuy Đảng đã có nhiều nỗ lực thực hiện nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật, song vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tôn trọng và thực hiện đúng Hiến pháp, pháp luật; còn tình trạng tổ chức đảng và cán bộ đảng làm thay, lấn sân chức năng tổ chức nhà nước, có những hoạt động không phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, gây dư luận tiêu cực. Trên thế giới, nền chính trị hiện đại, các chính đảng cầm quyền đều phải tuân thủ hiến pháp, pháp luật của quốc gia. Một trong các nguyên nhân làm cho một số ĐCS cầm quyền bị thất bại, sụp đổ vừa qua chính là do đã mắc bệnh “kiêu ngạo cộng sản”, coi thường hiến pháp, pháp luật, nên dần bị thoái hoá, biến chất, bị nhân dân chối bỏ.
Từ những căn cứ trên cho thấy, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật không phải là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng mà là một yêu cầu khách quan, vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vừa giúp xây dựng Đảng vững mạnh, thật sự xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội. Nội dung, yêu cầu nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật:
Một là,vị trí, vai trò của Đảng được chế định trong Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội. Nếu tư cách cầm quyền của Đảng không được thể chế hóa về mặt pháp luật, vô hình trung đã để vị trí lãnh đạo của Đảng đứng ngoài pháp luật. Quy định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp, pháp luật có nghĩa là vị trí, vai trò của Đảng được chế định trong Hiến pháp, pháp luật, thể hiện tính hợp hiến, hợp pháp sự cầm quyền của Đảng.
Vừa qua, có ý kiến cho rằng nên bỏ Điều 4 của Hiến pháp năm 1992 quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng để thể hiện tính chất dân chủ của chế độ. Kinh nghiệm chính trị cho thấy, đó chỉ là những luận điệu ngụy biện, mở đường cho các hoạt động phá hoại Đảng. Vai trò lãnh đạo Nhà nước, xã hội của ĐCS Việt Nam là do lịch sử quy định, nhân dân ủy thác; hơn nữa, trong nền chính trị hiện đại, các nhà nước đều do chính đảng lãnh đạo, không đảng này thì đảng khác mà thôi.
Hai là,đường lối, chính sách của Đảng phải được thể chế hoá thành Hiến pháp và pháp luật thông qua trình tự lập hiến, lập pháp, qua đó mà thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Là đảng cầm quyền, Đảng phải đề ra đường lối, chính sách để lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội thông qua các nghị quyết, chỉ thị. Đường lối, chính sách của Đảng là những quyết định của Đảng, không phải là quyết định hành chính đối với Nhà nước và xã hội. Về nguyên tắc, nếu công dân không là đảng viên không có trách nhiệm buộc phải thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Do vậy, để Nhà nước và toàn xã hội thực hiện thì đường lối, chính sách của Đảng phải được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp luật thông qua trình tự lập hiến, lập pháp. Chỉ khi đường lối của Đảng được luật hoá thì công dân mới có trách nhiệm thực hiện.
Ba là,tổ chức, sinh hoạt của Đảng phù hợp với các thiết chế do Hiến pháp và pháp luật quy định. Tổ chức của Đảng cần phù hợp với các thiết chế của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị do Hiến pháp, pháp luật chế định.
Điều đó vừa đáp ứng tốt yêu cầu lãnh đạo của Đảng, vừa đáp ứng yêu cầu thực thi Hiến pháp, pháp luật, không cản trở hoạt động của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Hội nghị Trung ương 4, khóa X (2007) về “đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” quyết định chỉ đạo điều chỉnh nhiệm kỳ Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cho phù hợp với nhiệm kỳ đại hội Đảng chính là để tổ chức bộ máy cơ quan đảng và cơ quan nhà nước phải bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống theo yêu cầu này.
Các sinh hoạt của Đảng ngoài việc tuân theo quy định của Điều lệ, hướng dẫn của Đảng còn cần phù hợp với các chế định của Hiến pháp, pháp luật, tránh gây cản trở, trái ngược với các thiết chế của Nhà nước.
Bốn là,nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với các chế định của Hiến pháp và pháp luật. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng cần được quy chế hóa, thể chế hóa, luật hóa. Cụ thể hóa Cương lĩnh, Hiến pháp và Ðiều lệ Ðảng về phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa Ðảng với Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được ra nghị quyết, chỉ thị trái với Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước; gây áp lực đến việc chấp hành và thực hiện đúng đắn pháp luật và chính sách nhà nước.
Năm là,tổ chức đảng và đảng viên gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không những phải nghiêm chỉnh chấp hành, mà còn phải gương mẫu trong chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi đảng viên có nghĩa vụ đặt mình dưới pháp luật, tuân theo pháp luật. Các đảng viên đảm nhận các chức vụ lãnh đạo và thực hiện công vụ theo chế độ trách nhiệm luật pháp quy định, không được lợi dụng quyền uy của Đảng, đặt mình lên trên pháp luật để làm trái Hiến pháp, pháp luật. Xử lý nghiêm minh theo kỷ luật đảng và pháp luật của Nhà nước đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm Hiến pháp, pháp luật, dù cho người đó ở chức vụ nào, không có ngoại lệ.
Những vấn đề cần chú ý để thực hiện tốt nguyên tắc này:
1) Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; nâng cao trách nhiệm thực thi Hiến pháp, pháp luật cho cán bộ, đảng viên, nhân dân. Cần tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về nội dung, yêu cầu của nguyên tắc; trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện nguyên tắc. Đồng thời, chỉ rõ những mặt tích cực và hạn chế trong thực hiện nguyên tắc này để mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hiểu sâu sắc thêm về nội dung, bản chất của nguyên tắc, các sai phạm thường gặp. Từ đó, tránh được những sai lầm trong hoạt động thực tiễn.
2) Nâng cao chất lượng thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật; tiếp tục thể chế hoá vị trí, vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng. Để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, một vấn đề rất quan trọng cần giải quyết là phải làm tốt việc thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật, bảo đảm đường lối, chủ trương lãnh đạo thể hiện trong các nghị quyết của Đảng phải được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đồng bộ. Hiến pháp đã quy định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị và xã hội. Tuy nhiên cần tiếp tục thể chế hóa vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng cụ thể hơn nữa trong từng loại tổ chức của hệ thống chính trị các cấp. Nên từng bước triển khai, nghiên cứu dự án xây dựng luật về Đảng.
3) Tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng đảng; đổi mới có hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chấp hành Điều lệ Đảng với chấp hành pháp luật của đảng viên. Trước mắt cần tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về xây dựng Đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém kéo dài trong công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn lại đội ngũ.
Xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng đủ khả năng đề ra đường lối, chính sách đúng, đồng thời có đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng tốt, bảo đảm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước.
Khâu mấu chốt là đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước các cấp; xây dựng hệ thống quy chế về sự lãnh đạo của Ðảng ở các cấp, các ngành theo tinh thần: Ðảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội theo pháp luật.
4) Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm nguyên tắc: Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền.
Cần nghiên cứu thiết lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp. Các nước trên thế giới đều có cơ chế bảo hiến bảo đảm tính chất chặt chẽ trong thực thi và tuân thủ hiến pháp, xử lý những vi phạm hiến pháp. Với Việt Nam, việc thiết lập mô hình cơ quan bảo hiến như thế nào cần tham khảo kinh nghiệm thế giới nhưng phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam.
5) Tăng cường kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Cần xây dựng cơ chế bảo đảm sự giám sát thật sự hiệu quả của nhân dân đối với tổ chức đảng và đảng viên. Phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm túc các trường hợp vi phạm nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không có ngoại lệ.