Tình hình giá cả thị trường 15 ngày đầu tháng 6/2014
Trong 15 ngày đầu tháng 6/2014, giá một số mặt hàng có xu hướng ổn định như: giá đường, thép và xi măng; giá xăng, dầu madut được giữ ổn định; giá dầu điezel, dầu hỏa, giá phân bón giảm nhẹ; giá thóc gạo ổn định tại miền Bắc nhưng tăng tại miền Nam. Cụ thể:
Giá thóc, gạo: Tại miền Bắc, giá thóc, gạo tẻ thường 15 ngày đầu tháng 6/2014 ổn định so với cùng kỳ tháng 5/2014: giá thóc tẻ thường dao động phổ biến ở mức 6.000-6.500 đồng/kg, giá gạo tẻ thường dao động phổ biến ở mức 8.000-12.500 đồng/kg; Tại Nam Bộ, giá lúa, gạo thành phẩm xuất khẩu trong 15 ngày đầu tháng 6/2014 tăng so với cùng kỳ tháng 5/2014 là do các công ty đang thu mua để thực hiện hợp đồng đã ký xuất cho Philipines, CuBa. Cụ thể: Giá lúa dao động ở mức 5.050-6.050 đồng/kg, tăng khoảng 50 đồng/kg; gạo thành phẩm xuất khẩu loại 5% tấm giá trong khoảng 7.875-8.400 đồng/kg, tăng khoảng 125-350 đồng/kg; loại 25% tấm giá khoảng 7.250-7.550 đồng/kg, tăng khoảng 50 đồng/kg.
Giá thực phẩm tươi sống 15 ngày đầu tháng 6/2014, có biến động không đều giữa các mặt hàng so với cùng kỳ tháng trước, cụ thể: Thịt lợn hơi: miền Bắc giá phổ biến khoảng 43.000-44.000 đồng/kg, giảm 1.000 đồng/kg; miền Nam giá phổ biến khoảng 42.000-50.000 đồng/kg, giảm 2.000 đồng/kg. Thịt bò thăn ổn định: miền Bắc giá phổ biến khoảng 250.000-260.000 đồng/kg; miền Nam giá phổ biến khoảng 250.000-265.000 đồng/kg. Thịt gà ta và gà công nghiệp làm sẵn có kiểm dịch ổn định: miền Bắc giá phổ biến khoảng 125.000-130.000 đồng/kg; miền Nam giá phổ biến khoảng 117.000-125.000 đồng/kg; gà công nghiệp làm sẵn ở mức 55.000-65.000 đồng/kg. Giá một số mặt hàng thuỷ hải sản như cá, tôm… ổn định. Cụ thể: Cá chép 70.000-80.000 đồng/kg; tôm sú 180.000-185.000 đồng/kg; cá quả 110.000-120.000 đồng/kg.
Giá một số loại rau củ quả có biến động không đều so với cùng kỳ tháng 5/2014: bắp cải 8.000-10.000 đồng/kg, ổn định; khoai tây 12.000-15.000 đồng/kg, ổn định; cà chua 12.000-14.000 đồng/kg, giảm 1.000-2.000 đồng/kg.
Giá bán lẻ đường trên thị trường ổn định so với cùng kỳ tháng 5/2014, hiện phổ biến ở mức 18.000 đồng/kg - 21.000 đồng/kg.
Giá phân urê 15 ngày đầu tháng 6/2014 giảm 100 đồng/kg so với cùng kỳ tháng 5/2014. Nguyên nhân là do thời điểm hiện nay, miền Bắc đã qua thời kỳ bón lúa vụ Đông Xuân, nhu cầu thị trường thấp; tại các tỉnh miền Trung Tây Nguyên nhu cầu phân bón Urê tăng nhẹ để phục vụ bón cây công nghiệp và phục vụ cho vụ Hè Thu sớm. Tuy nhiên, do nguồn cung tương đối dồi dào đã tác động làm giá phân bón Urê ở thị trường trong nước giảm nhẹ trong 15 ngày đầu tháng 6/2014. Cụ thể: tại miền Bắc, giá phổ biến khoảng 8.200-8.400 đồng/kg; tại miền Nam, mức giá phổ biến khoảng 8.000-8.400 đồng/kg.
Giá bán lẻ xi măng 15 ngày đầu tháng 6/2014 ổn định so với 15 ngày đầu tháng 5/2014. Tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung hiện phổ biến từ 1.050.000-1.500.000 đồng/tấn; tại các tỉnh miền Nam phổ biến từ 1.460.000-1.800.000 đồng/tấn.
Giá bán lẻ thép xây dựng 15 ngày đầu tháng 6/2014 cơ bản ổn định so với cùng kỳ 15 ngày đầu tháng 5/2014, cụ thể: tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung dao động từ 15.400-16.000 đồng/kg; tại các tỉnh Miền Nam từ 15.300-15.900 đồng/kg.
Từ ngày 1/6/2014, giá LPG tại TP Hồ Chí Minh và Hà Nội tăng 5.000-6.000 đồng/bình 12kg. Giá bán lẻ đến người tiêu dùng cụ thể: Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh: bình quân 398.500 đồng/bình 12kg (tuỳ từng doanh nghiệp), tăng 5.000 đồng/bình 12kg; Khu vực Hà Nội: bình quân 413.000 đồng/bình 12kg, tăng 6.000 đồng/bình12kg.
Giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh theo Công văn số 7831/BTC-QLG ngày 12/6/2014, trong đó yêu cầu các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối tiếp tục giữ ổn định giá bán đối với mặt hàng xăng, dầu madut trong nước như hiện hành, giảm giá bán với mặt hàng dầu điêzen, dầu hỏa. Cụ thể giá bán xăng dầu trong nước như sau: Xăng RON 92: 24.900 đồng/lít, Dầu điêzen 0,05S: 22.536 đồng/lít; Dầu hỏa: 22.377 đồng/lít; Dầu madut 3,5S: 18.290 đồng/kg.
Kể từ ngày 01/6/2014 Thông tư số 22/2013/TT-BKHCN quy định về quản lý đo lường trong kinh doanh vàng và quản lý chất lượng vàng trang sức, mỹ nghệ lưu thông trên thị trường bắt đầu có hiệu lực, không khí mua bán vàng nữ trang khá trầm lắng. Theo nội dung của Thông tư trên, các sản phẩm vàng trang sức, mỹ nghệ chỉ được phép lưu thông trên thị trường khi đã công bố tiêu chuẩn áp dụng và ghi nhãn. Các nội dung cơ bản phải có trên một sản phẩm gồm thông tin về sản phẩm, nhà sản xuất, yêu cầu kỹ thuật, ký hiệu để phân biệt từng loại vàng, tuổi vàng, giá...
Do đó, một số cửa hàng kinh doanh vàng nữ trang “án binh bất động” do sợ bị phạt nên đã tạm ngưng kinh doanh vàng để nghe ngóng diễn biến thị trường. Giá vàng trong nước tăng theo đà tăng của giá vàng thế giới. Có thời điểm giá vàng tăng cao gần chạm mốc 37 triệu đồng/lượng, giá vàng miếng SJC dao động mua vào/ bán ra ở mức 36,75-36,87 triệu đồng/lượng. Theo quy đổi, giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới 4,2 triệu đồng/lượng. Cụ thể giá bán vàng 99,99% tại các công ty kinh doanh vàng bạc Nhà nước tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh dao động lần lượt ở mức 3,627-3,625 triệu đồng/chỉ (đầu tháng), đến giữa tháng, giá vàng tăng ở mức 3,681-3,680 triệu đồng/chỉ với mức tăng lần lượt là 54.000-55.000 đồng/chỉ.
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố vẫn giữ ổn định ở mức 21.036 đồng/USD. Tại ngân hàng thương mại, tỷ giá Đôla Mỹ đầu tháng 6/2014 được niêm yết ở mức mua vào – bán ra 21.130-21.180 đồng/USD, đến giữa tháng, tỷ giá tăng 65 đồng/USD ở cả hai chiều mua vào – bán ra lên mức 21.195-21.245 đồng/USD.
Tỷ giá hạch toán giữa Đồng Việt Nam với Đôla Mỹ tháng 6/2014 được Bộ Tài chính công bố áp dụng cho các nghiệp vụ quy đổi và hạch toán thu, chi ngân sách Nhà nước bằng ngoại tệ; quy đổi và hạch toán sổ sách kế toán của Kho bạc Nhà nước là 1USD = 21.036 đồng.