Xuất khẩu hàng hóa quý I/2018
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 2/2018 đạt 14.327 triệu USD, cao hơn 927 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 699 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 118 triệu USD; sắt thép cao hơn 95 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác cao hơn 83 triệu USD; rau quả cao hơn 47 triệu USD; xăng dầu cao hơn 22 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ thấp hơn 63 triệu USD; hàng dệt may thấp hơn 170 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Ba ước tính đạt 19,80 tỷ USD, tăng 38,2% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 5,36 tỷ USD, tăng 43,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 14,44 tỷ USD, tăng 36,4%.
Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều có kim ngạch tăng so với tháng trước, trong đó một số mặt hàng tăng cao như: Cao su tăng 81%; gỗ và các sản phẩm gỗ tăng 60,1%; gạo tăng 53,9%; thủy sản tăng 48,1%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 47,1%; dệt may tăng 35%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 32,3%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 28%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Ba năm nay tăng 15,4%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 9,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 17,9%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện tăng 62,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 21,7%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 19,6%.
Tính chung quý I năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 54,31 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 14,97 tỷ USD, tăng 18,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 39,34 tỷ USD, tăng 23,2%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2017.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực quý I năm nay vẫn duy trì tốc độ tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 12,3 tỷ USD, tăng 58,8%; hàng dệt may đạt 6,3 tỷ USD, tăng 12,9%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 6,3 tỷ USD, tăng 13,2%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,5 tỷ USD, tăng 22,3%; giày dép đạt 3,5 tỷ USD, tăng 10,9%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,1 tỷ USD, tăng 20,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,9 tỷ USD, tăng 8%; thủy sản đạt 1,7 tỷ USD, tăng 11,2%; rau quả đạt 950 triệu USD, tăng 35,6%; sắt thép đạt 949 triệu USD, tăng 43,3%.
Một số mặt hàng kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước: Dầu thô đạt 509 triệu USD, giảm 21,1% (lượng giảm 36,5%); cao su đạt 408 triệu USD, giảm 19,8% (lượng tăng 10,5%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 277 triệu USD, giảm 5,3% (lượng giảm 27,7%); hạt tiêu đạt 190 triệu USD, giảm 41,3% (lượng giảm 2%).
Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chiếm 99,7% kim ngạch hàng điện thoại và linh kiện; chiếm 90% kim ngạch máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng; chiếm 61% kim ngạch hàng dệt may.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu quý I năm nay, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 28 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm trước; chiếm 51,6% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 3,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ 2017), trong đó mặt hàng điện thoại và linh kiện đạt 12,3 tỷ USD, tăng mạnh tới 58,8% và chiếm 22,7%.
Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 19,8 tỷ USD, tăng 14,6%; chiếm 36,4% (giảm 2,4 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 4,8 tỷ USD, tăng 7,8%; chiếm 8,9% (giảm 1,2 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản ước tính đạt 1,7 tỷ USD, tăng 11,2% và chiếm 3,1% (giảm 0,3 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu quý I/2018, EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt 9,8 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 33,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 13,9%.
Tiếp đến là Hoa Kỳ đạt 9,6 tỷ USD, tăng 11,6%, trong đó giày dép tăng 19,3%; dệt may tăng 15,4%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 9,5%. Trung Quốc đạt 9 tỷ USD, tăng 46%, trong đó điện thoại các loại và linh kiện tăng 674,4%; hàng rau quả tăng 56%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 31,7%.
ASEAN đạt 5,6 tỷ USD, tăng 13,5%, trong đó sắt thép tăng 41,6%; điện thoại và linh kiện tăng 16,8%. Hàn Quốc đạt 4,3 tỷ USD, tăng 35,8%, trong đó điện thoại các loại và linh kiện tăng 63,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 59,4%; hàng dệt may tăng 12,2%. Nhật Bản đạt 4,2 tỷ USD, tăng 12%, trong đó hàng dệt may tăng 18,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 13,9%.