5 dấu ấn của Bộ trưởng Đặng Việt Châu với công tác tài chính - ngân sách (*)


Đồng chí Đặng Việt Châu là một nhà lão thành Cách mạng, là một nhà trí thức lớn của Cách mạng, là một chuyên gia kinh tế tài năng, là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, luôn giữ gìn sự thanh liêm, chính trực và nếp sống thanh bạch cho đến cuối đời. Tạp chí Kinh tế - Tài chính lược trích bài viết "5 dấu ấn của Bộ trưởng Đặng Việt Châu với công tác tài chính - ngân sách" của cố Thứ trưởng Thường trực Bộ Tài chính Phan Văn Dĩnh trong cuốn sách "Đồng chí Đặng Việt Châu: Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng".

Cố Bộ trưởng Bộ Tài chính Đặng Việt Châu đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định hợp tác kinh tế với đại diện Chính phủ Trung Quốc.
Cố Bộ trưởng Bộ Tài chính Đặng Việt Châu đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định hợp tác kinh tế với đại diện Chính phủ Trung Quốc.

Dấu ấn thứ nhất

Đồng chí Đặng Việt Châu làm Bộ trưởng Tài chính vào đúng thời điểm cả nước có chiến tranh, Đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc dữ dội, khốc liệt. Tháng 12/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp khẩn cấp đề ra ba nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước ở cả hai miền Nam - Bắc, gồm: Tiếp tục xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; Chi viện đắc lực cho Cách mạng miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; và Đánh thắng chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ trên bầu trời miền Bắc.

Ban Chấp hành Trung ương còn đề ra các nhiệm vụ cụ thể và toàn diện sau đây:

Về kinh tế:

- Đối với nông nghiệp: Phải đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm đủ lương thực, thực phẩm cho bộ đội ăn no, đánh thắng, vừa bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nguyên liệu cho công nghiệp.

- Đối với công nghiệp: Tạm dừng xây dựng một số nhà máy lớn, sơ tán các xí nghiệp trọng điểm địch bắn phá, khẩn trương phát triển công nghiệp địa phương (xí nghiệp vừa, xí nghiệp nhỏ) kể cả thủ công nghiệp.

Về tài chính - ngân sách:

Để thực hiện nhiệm vụ chính trị đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, yêu cầu to lớn, bức xúc đặt ra cho ngành Tài chính, cho Bộ trưởng Bộ Tài chính Đặng Việt Châu thời kỳ 1965 - 1975 như sau:

- Phải huy động tốt nhất nguồn tài chính trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ viện trợ của nước ngoài, tập trung sức người, sức của, mọi nguồn vốn tài chính cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và nhanh chóng thực hiện việc chuyển hướng xây dựng kinh tế trong điều kiện có chiến tranh.

- Thông qua việc sửa đổi, bổ sung chính sách và cơ chế quản lý tài chính, phát huy tính tích cực, chủ động của các ngành, các địa phương, cơ sở, giữ vững và nâng cao chế độ hạch toán kinh tế trong khu vực quốc doanh, khuyến khích hướng dẫn sản xuất, kinh doanh…chống đầu cơ tích trữ, góp phần ổn định giá cả, sản xuất và đời sống của nhân dân trong chiến tranh.

- Về biện pháp giá cả, Chính phủ cho điều chỉnh tăng giá thu mua nông sản theo nghĩa vụ và giá mua khuyến khích ngoài nghĩa vụ, đồng thời thực hiện nguyên tắc giá bán tư liệu sản xuất cho nông nghiệp không có tích lũy hoặc chịu lỗ, coi như đầu tư vào sản xuất nông nghiệp.

- Chính phủ có chủ trương xây dựng dự trữ nhà nước, nhằm vào một số vật tư quan trọng, chiến lược, có kế hoạch bổ sung kho dự trữ hàng năm, bảo đảm đầy đủ và sẵn sàng, có tác dụng giúp vượt qua những biến cố bất ngờ, ứng phó có hiệu quả với thiên tai, địch họa.

Trong thời gian này, khó khăn lớn nhất của ngành Tài chính đó là nền kinh tế bị đảo lộn, bị tổn thất nặng nề trước sự đánh phá điên cuồng của giặc Mỹ, làm ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế và nguồn thu, trong khi nhu cầu chi tiêu cho chiến đấu, sản xuất, đời sống lại rất to lớn và khẩn trương. Tuy nhiên, vẫn có những thuận lợi cơ bản như: Nhân dân tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sẵn sàng dốc sức người, sức của theo tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” để chiến đấu và chiến thắng. Đồng thời, với sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu anh em cùng nhân dân tiến bộ trên thế giới… là nguồn tiếp sức quý báu đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vượt qua khó khăn, thử thách, Bộ trưởng Đặng Việt Châu đã lãnh đạo cùng toàn ngành Tài chính hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Dấu ấn thứ hai

Đó là dấu ấn của Bộ trưởng Đặng Việt Châu với chính sách động viên tài chính đúng đắn, toàn diện hợp lý đối với các thành phần kinh tế.

Bộ trưởng Đặng Việt Châu quan tâm rất sâu sát đến các xí nghiệp quốc doanh có nguồn thu lớn, các vùng nông thôn, trung tâm buôn bán để nghiên cứu khả năng động viên tài chính, đề ra mức thu sát, đúng, hợp lý… sau đây:

- Áp dụng rộng rãi chế độ thu quốc doanh đối với kinh tế nhà nước:

Trên cơ sở tính toán, xác định giá thành hợp lý, giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn công nghiệp mà xác định mức thu quốc doanh của từng sản phẩm, của từng loại hình xí nghiệp quốc doanh, vừa bảo đảm nguồn thu kịp thời, ổn định cho ngân sách nhà nước, vừa bảo đảm nâng cao tính chủ động, ý thức trách nhiệm, thúc đẩy hạch toán kinh tế trong từng xí nghiệp.

Đồng thời, Nhà nước xác định lợi nhuận định mức cho từng loại sản phẩm, từng loại hình xí nghiệp, tính toán lợi nhuận thực hiện, chế độ phân phối lợi nhuận, trích lập 3 quỹ (quỹ phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi) trong các xí nghiệp quốc doanh.

Áp dụng chế độ thu quốc doanh, chế độ phân phối lợi nhuận, trích lập 3 quỹ… có tác dụng nâng cao chất lượng kinh doanh, sử dụng tốt máy móc, thiết bị, tăng năng suất lao động, tiết kiệm tiêu hao vật tư, hạ giá thành, tăng lợi nhuận xí nghiệp.

- Ổn định nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp cho nông dân:

Bộ Tài chính trình Chính phủ và Quốc hội chủ trương cho ổn định mức nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp cho nông dân, như đã thi hành trong các năm 1962, 1963. Bảo đảm cho nông dân, hợp tác xã nộp thuế nông nghiệp nhanh, gọn, đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cho tiền tuyến, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, hàng trăm hợp tác xã đã đạt năng suất 5 tấn thóc/ha. Ngoài ra, Bộ Tài chính còn nghiên cứu ban hành chế độ tài vụ hợp tác xã nông nghiệp, góp phần tăng cường quản lý và thúc đẩy hạch toán trong hợp tác xã nông nghiệp.

- Sửa đổi, bổ sung kịp thời chế độ thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh:

Đầu năm 1966, Bộ Tài chính trình Quốc hội ban hành Điều lệ Thuế Công Thương nghiệp mới, áp dụng cho hợp tác xã, tổ hợp tác và hộ riêng lẻ, bao gồm thuế doanh nghiệp, thuế lợi tức và thuế buôn chuyến, xác định rõ đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế, thuế suất, thuế biểu, có phân biệt đối với ngành sản xuất, vận tải, xây dựng, phục vụ, ăn uống, thương nghiệp.

Đề ra các quy định miễn thuế, giảm thuế, đối với các ngành nghề khuyến khích sản xuất dùng phế liệu, nguyên liệu địa phương, vùng có chiến tranh ác liệt, ngành vận tải…

- Tổ chức tiếp nhận, quản lý, sử dụng hàng viện trợ có hiệu quả:

Bộ trưởng Đặng Việt Châu rất chú trọng chỉ đạo nghiên cứu kỹ chế độ tổ chức tiếp nhận và thanh toán hàng viện trợ, nguồn thu lớn của ngân sách. Thời gian này, hàng viện trợ là nguồn lực cực kỳ quan trọng, có lúc chiếm đến 70 - 80% tổng số thu ngân sách nhà nước, không kể phần viện trợ vũ khí và thiết bị chiến tranh. Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đề ra các biện pháp quyết liệt, tăng cường quản lý tài chính đối với hàng viện trợ, giảm bớt các khâu trung gian, đơn giản hóa thủ tục tiếp nhận hàng, làm cho vật tư, hàng hóa được phân phối và sử dụng kịp thời, sớm phát huy tác dụng cao nhất. Các bộ, ngành được nhận vật tư hàng hóa trước, và thanh toán sau với Bộ Tài chính trên cơ sở hạch toán và theo dõi rành mạch.

Bộ Ngoại Thương được giao nhiệm vụ nhập khẩu hàng hóa thuộc quỹ viện trợ, từ khâu lên đơn hàng, ký kết hợp đồng cụ thể với nước ngoài, tổ chức giao nhận hàng… cho tới khâu lập hóa đơn đòi tiền chính xác, Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ ở khâu tiếp theo là đôn đốc các Bộ, các ngành nhận hàng thu nộp ngân sách kịp thời, đưa việc thanh toán tiền hàng viện trợ vào nề nếp, thống nhất thông qua ngân sách nhà nước.

Dấu ấn thứ ba

Bộ trưởng Đặng Việt Châu khẩn trương chỉ đạo xây dựng các chế độ quản lý tài chính thích hợp trong các xí nghiệp quốc doanh, chế độ phân cấp quản lý tài chính giữa Trung ương và địa phương ở miền Bắc.

Khẩn trương đổi mới phân cấp quản lý tài chính giữa Trung ương và địa phương, nhằm phát huy tính năng động sáng tạo trong việc chỉ đạo quản lý toàn diện của chính quyền địa phương.

Năm 1967, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Điều lệ phân cấp quản lý tài chính cho tỉnh, thành phố với nội dung là mỗi tỉnh, thành phố có ngân sách của mình do chính quyền địa phương xây dựng và quản lý. Hội đồng nhân dân địa phương xét, duyệt, phê chuẩn trong khuôn khổ quy định của Hội đồng Chính phủ. Điều lệ quy định rõ các khoản thu cố định và thu điều tiết cho ngân sách địa phương theo kế hoạch dài hạn để bảo đảm tính ổn định của ngân sách và sự chủ động của chính quyền địa phương trong việc bồi dưỡng, khai thác nguồn thu, bố trí hợp lý chi tiêu, tự cân đối thu, chi một cách tích cực.

Năm 1972, Chính phủ ban hành Điều lệ ngân sách xã, xác định rõ nội dung và cơ cấu thu, chi ngân sách xã, quan hệ giữa xã và hợp tác xã, chế độ phân cấp quản lý thu chi giữa tỉnh, huyện và xã, tạo điều kiện cho Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân xã thực hiện chức năng của cấp chính quyền cơ sở.

- Đổi mới chế độ cấp phát vốn xây dựng cơ bản (XDCB):

Đầu năm 1969, trên cơ sở nghiên cứu đề xuất của Bộ Tài chính, Bộ trưởng Đặng Việt Châu, Chính phủ ban hành chế độ đổi mới cấp phát vốn XDCB đối với xí nghiệp quốc doanh địa phương như sau:

- Vốn XDCB của ngân sách chỉ bố trí cho các công trình có quy mô vừa và tương đối lớn, thời gian thu hồi vốn tương đối dài.

- Vốn XDCB thuộc nguồn vay tín dụng ngân hàng chỉ bố trí cho các công trình có quy mô vừa và nhỏ, đem lại hiệu quả nhanh.

- Vốn XDCB để đầu tư chiều sâu, mở rộng xí nghiệp cũ, chủ yếu xí nghiệp tự lo bằng quỹ phát triển sản xuất và vay vốn dài hạn của ngân hàng.

Chế độ này góp phần giải quyết vốn để đẩy mạnh xây dựng kinh tế địa phương, phù hợp với chế độ phân cấp quản lý kinh tế - tài chính cho cấp tỉnh và thành phố.

Đầu năm 1971, trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Tài chính Đặng Việt Châu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Điều lệ cấp phát vốn XDCB (sửa đổi) với nội dung chủ yếu là thay thế chế độ tạm ứng vốn bằng chế độ cho vay dự trữ vật liệu và xây dựng dở dang. Đồng thời, áp dụng phương pháp cấp phát vốn đầu tư để thanh toán theo khối lượng hoàn thành theo giai đoạn quy ước, thay cho phương pháp cấp phát từng tuần kỳ theo khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành. Sau Hiệp định Paris (1973), chế độ này được áp dụng rộng rãi và có tác dụng tăng cường quản lý vốn XDCB, thúc đẩy hoàn thành công trình nhanh, gọn, dứt điểm.

- Đổi mới chế độ cấp phát vốn lưu động:

Trên cơ sở nghiên cứu đề xuất của Bộ Tài chính và Bộ trưởng Đặng Việt Châu, Chính phủ đã chấp thuận giải pháp xử lý cấp vốn lưu động cho xí nghiệp mới và vật tư ứ đọng như sau:

a) Cấp vốn lưu động cho xí nghiệp mới:

Thời kỳ này, để hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương, định mức vốn lưu động được xây dựng và được ngân sách địa phương cấp phát một lần, khi xí nghiệp bắt đầu hoạt động và cứ ba năm mới được xem xét lại. Nếu đột xuất có nhu cầu tăng vốn lưu động, thì bổ sung bằng quỹ phát triển sản xuất, bằng vay vốn ngân hàng. Nếu nhu cầu lớn, vượt quá 50% định mức cũ thì được xem xét và cấp bổ sung, bằng vốn ngân sách.

b) Kiểm kê, xử lý vật tư ứ đọng lâu ngày:

Bộ trưởng Đặng Việt Châu rất quan tâm nghiên cứu chế độ quản lý xử lý vật tư ứ đọng ở xí nghiệp. Để đưa việc quản lý xí nghiệp vào nề nếp, hạch toán kinh tế, Bộ Tài chính rất quan tâm hướng dẫn tổ chức kiểm tra, kiểm kê và giải quyết vật tư, hàng hóa ứ đọng, có kế hoạch huy động vật tư, hàng hóa ứ đọng ra sử dụng, tổ chức bảo vệ bảo quản không để hư hỏng, mất mát, có các biện pháp ngăn ngừa, không để phát sinh thêm vật tư, hàng hóa ứ đọng mới.

- Chấn chỉnh công tác Kế toán ở Xí nghiệp:

Năm 1970, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành hệ thống tài khoản thống nhất áp dụng chung cho các đơn vị kinh tế do Trung ương quản lý, không phân biệt tính chất, quy mô hoạt động của đơn vị, đồng thời áp dụng hình thức Nhật ký chứng từ thích hợp.

Bộ trưởng cũng đã ban hành “Quy định mới về kế toán trưởng”, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của kế toán trưởng, quy chế bổ nhiệm, thuyên chuyển, khen thưởng, kỷ luật bảo đảm cho kế toán trưởng, giữ đúng vị trí và làm đầy đủ chức năng của mình theo chế độ quy định.

- Kiện toàn công tác thanh tra tài chính:

Năm 1970, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Chính phủ đã kiện toàn lại tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tài chính, từ Bộ Tài chính tới các Sở Tài chính ở các địa phương, tạo thành một khối thống nhất, tăng cường công tác thanh tra tài chính ở các ngành, các cấp, các đơn vị, phát hiện xử lý nhiều vụ vi phạm về chính sách chế độ tài chính, góp phần đưa công tác quản lý tài chính vào nền nếp, bảo vệ chính sách, chế độ và kỷ luật của Nhà nước.

Dấu ấn thứ tư

Bộ trưởng Tài chính Đặng Việt Châu, ngoài quan tâm tới nhiệm vụ bảo đảm tài chính cho xây dựng, củng cố miền Bắc, chăm lo quốc phòng miền Bắc, còn chăm lo nguồn vốn cấp bách cho chiến trường miền Nam theo các việc lớn sau đây:

- Xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, nối liền hậu phương lớn miền Bắc đến tiền tuyến lớn miền Nam, bảo đảm giao thông thông suốt trong mọi tình thế, chi viện kịp thời, liên tục sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.

- Đi đôi với việc cung cấp sức người cho các sư đoàn chiến đấu, binh đoàn chiến đấu và phương tiện chiến tranh từ miền Bắc vào, ngân sách Trung ương còn dùng tiền mặt để chi viện cho Cách mạng miền Nam, lúc đầu bằng tiền Ngụy Sài Gòn, bằng tiền Riel và sau cùng bằng đô la Mỹ với số lượng tăng lên nhanh chóng theo yêu cầu đẩy mạnh chiến tranh từng giai đoạn (chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh,…). Thời kỳ 1966 – 1975, huy động nguồn vốn tài chính trong nước và cả nguồn viện trợ nước ngoài tăng lên nhanh chóng, bình quân năm tăng gấp 5 lần so với thời kỳ 1961 - 1965 để bảo đảm cho sản xuất và chiến đấu trong cả nước.

Dấu ấn thứ năm

Bộ trưởng Tài chính Đặng Việt Châu rất quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính Nhà nước, đào tạo cán bộ, kể cả việc lo chi viện cán bộ tài chính cho Cách mạng miền Nam.

+ Về tổ chức:

- Đầu năm 1974, theo đề nghị của Bộ trưởng Tài chính Đặng Việt Châu, Chính phủ đã ban hành Nghị định 61/1974/NĐ-CP, xác định rõ tổ chức bộ máy, chức trách nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Tài chính. Theo Nghị định này và một số văn bản hướng dẫn, tổ chức Bộ Tài chính được mở rộng quy mô hoạt động, đề cao vai trò hệ thống quản lý ngân sách, tăng cường quản lý theo chuyên ngành trong kinh tế quốc doanh, đẩy mạnh công tác quản lý và hạch toán các nguồn vốn của Nhà nước về ngoại tệ, về hàng viện trợ, phát triển nghiệp vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong lĩnh vực tài chính trong ngành và trong các ngành khác.

Một số đơn vị trong Bộ, đặc biệt các Vụ chuyên ngành được bổ sung và sắp xếp lại, cụ thể như sau:

- Vụ Tổng Dự toán được tách ra thành Vụ Ngân sách Nhà nước và Vụ Ngân sách Địa phương.

- Vụ Tài vụ Công nghiệp Kiến trúc được tách ra thành Vụ Tài vụ Công nghiệp nặng và Vụ Tài vụ Công nghiệp nhẹ.

- Vụ Tài vụ Giao thông - Bưu điện và Vụ Nông lâm Thủy lợi được chuyển thành Vụ Tài vụ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Vụ Tài vụ Giao thông Thủy lợi.

- Vụ Tài vụ Thương nghiệp - Ngân hàng và Vụ Quản lý Ngoại tệ được chuyển thành Vụ Thương nghiệp Vật tư và Vụ Quản lý Ngoại tệ và Tài vụ Ngoại thương.

- Vụ Kế toán chuyển thành Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm tra Kế toán.

- Vụ Nghiên cứu Kinh nghiệm và Lý luận Tài chính chuyển thành Viện Nghiên cứu Khoa học Tài chính.

- Vụ Thu Quốc doanh và Thuế và Vụ Tài vụ Hợp tác xã và Thuế nông nghiệp được giải thể để thành lập Cục Thu Quốc doanh và Vụ thuế Tập thể - Cá thể.

- Thành lập mới Vụ Cân đối Tài chính và Kế toán Quốc gia.

- Vụ Quản lý Kinh phí Quốc phòng và Vụ Tài vụ Bộ đội làm Kinh tế (Vụ I).

- Ban Tiếp nhận Viện trợ.

- Sáp nhập Vụ Tài vụ Văn hóa Xã hội và Vụ Tài vụ Hành chính thành Vụ Tài vụ Hành chính Văn Xã.

- Trường Đại học Tài chính Ngân hàng và các trường Trung học Tài chính Kế toán cũng trực thuộc Bộ và do Vụ Tổ chức Cán bộ phụ trách.

Nghị định số 61/1974/NĐ-CP còn quy định bộ máy quản lý tài chính Nhà nước ở địa phương: ở các thành phố trực thuộc Trung ương có Sở Tài chính, ở các tỉnh có Ty tài chính, ở các quận, huyện, thị xã có Phòng Tài chính, ở các xã có cán bộ chuyên trách tài chính xã.

Ngoài ra, Chính phủ cho thành lập Phòng giám sát hoạt động kinh tế tài chính đối với các xí nghiệp Trung ương đóng tại địa phương, trực thuộc Sở, Ty Tài chính và giao cho Giám đốc Sở, Ty giúp Bộ trưởng Tài chính nắm chắc tình hình quản lý tài chính của các Xí nghiệp Trung ương này.

+ Về công tác đào tạo cán bộ:

Theo chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Đặng Việt Châu, đi đôi với việc kiện toàn tổ chức, công tác đào tạo cán bộ tài chính cho ngành Tài chính, cũng như cho các ngành kinh tế quốc dân, kể cả cho miền Nam được đẩy mạnh. Ngay trong năm học 1967 - 1968, Trường Đại học Tài chính - Kế toán - Ngân hàng Trung ương đã mở lớp bồi dưỡng cán bộ tài chính riêng cho miền Nam với một khoa đào tạo, gọi là chuyên tu B. Trong thời kỳ này, hàng trăm cán bộ tài chính - ngân hàng có trình độ chuyên môn giỏi và quan điểm lập trường vững vàng được tăng cường cho cách mạng miền Nam, đã trở thành lực lượng nòng cốt, thiết thực phục vụ yêu cầu bổ sung, sửa đổi chính sách và củng cố bộ máy quản lý tài chính ở miền Nam ngày càng đạt hiệu quả.

Đồng chí Đặng Việt Châu là một nhà lão thành Cách mạng, ở tù lâu năm tại nhà lao Hải Phòng, Hỏa Lò, Sơn La trong những năm 1931 - 1936. Ra tù, lại tiếp tục hoạt động, 57 năm tuổi Đảng, 59 năm hoạt động Cách mạng liên tục, giữ nhiều cương vị lãnh đạo khác nhau trong các cơ quan Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, chúng tôi đánh giá tôn vinh ông là một nhà trí thức lớn của Cách mạng, là một chuyên gia kinh tế tài năng, là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, luôn giữ gìn sự thanh liêm, chính trực và nếp sống thanh bạch cho đến cuối đời.

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của đồng chí Đặng Việt Châu, chúng tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước bàn thờ đồng chí và mãi mãi gìn giữ, ghi nhớ trong tim về những dấu ấn, những kỷ niệm sâu sắc về một người lãnh đạo kính mến.

* Lược trích Bài viết của cố Thứ trưởng Bộ Tài chính Phan Văn Dĩnh trong cuốn sách "Đồng chí Đặng Việt Châu: Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng".