Cấm xe xăng - Cần lộ trình dài hơi và giải pháp đồng bộ:
Bài 1: Cấm xe xăng, TP. Hà Nội cần giải 2 bài toán khó
Nhằm đạt mục tiêu hạn chế ô nhiễm khói bụi, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện chất lượng không khí, tiến tới mô hình đô thị bền vững theo định hướng phát triển xanh, TP. Hà Nội dự kiến sẽ cấm xe xăng (xe máy từ tháng 7/2026 và ô tô cá nhân từ năm 2028 trong khu vực vành đai 1 và 2). Tuy nhiên, với thời gian chuẩn bị còn rất ngắn, chính sách lại tác động lớn tới cơ quan quản lý, doanh nghiệp và đặc biệt là đời sống sinh hoạt của người dân, hàng loạt câu hỏi khó được đặt ra không dễ trả lời.

Giải bài toán phương tiện công cộng
Theo GS. TS. Nguyễn Hữu Dũng - nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Xây dựng), Chủ tịch Hội Môi trường Xây dựng Việt Nam, chuyển đổi sang phương tiện giao thông thân thiện với môi trường là “xu hướng tất yếu” để TP. Hà Nội hướng đến mục tiêu trở thành “một đô thị văn minh, hiện đại, xứng tầm quốc tế”.
TP. Hà Nội cần tổ chức thực hiện bài bản, đồng bộ và quyết liệt để có một hệ thống giao thông công cộng tiện lợi, hiệu quả. Xe buýt, metro, xe đạp công cộng phải được đầu tư đồng bộ, phủ rộng các khu dân cư, khu công nghiệp, trường học, bệnh viện, công sở… tiện lợi để người dân có thể lựa chọn thay vì bắt buộc phải sử dụng xe cá nhân. Đây là vấn đề không nhỏ, đòi hỏi ngân sách lớn cũng như thời gian thực hiện.
Tuy nhiên, với thời hạn triển khai chỉ chưa đầy một năm, chính sách này đặt ra không ít thách thức về hạ tầng, quản lý đô thị và an sinh xã hội, đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng và phối hợp đồng bộ.
Ông Đào Việt Long - Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội cho biết: Trên địa bàn TP. Hà Nội hiện có 6,9 triệu xe máy và xấp xỉ gần 1,5 triệu xe máy của các tỉnh khác thường xuyên hoạt động. Mô tô, xe máy chiếm 95% lượng phương tiện xe cơ giới.
Nhiều năm qua, mặc dù Thành phố đã tập trung nhiều vào các dự án giao thông lớn ở khu vực Vành đai 2 và Vành đai 3, thế nhưng, cần nhìn nhận rõ rằng, tình hình hạ tầng kỹ thuật đô thị tại khu vực nội đô vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt hạ tầng giao thông công cộng chưa có nhiều cải thiện. Xe buýt cũng mới chỉ đáp ứng khoảng 17% nhu cầu đi lại, trong khi đường sắt đô thị mới chỉ có một tuyến là tuyến Cát Linh – Hà Đông đi vào Vành đai 1.

Rào cản khi chuyển đổi sang xe điện
Hiện có nhiều doanh nghiệp sản xuất xe máy điện trong nước triển khai các chương trình ưu đãi, hỗ trợ mua xe trả góp, sạc miễn phí để khuyến khích người dân nhanh chóng chuyển đổi sang xe điện.
Theo ông Đinh Trọng Khang - Phó Giám đốc Viện Môi trường (Viện Khoa học công nghệ giao thông vận tải), để chuyển đổi sang phương tiện xe điện hay nhiên liệu sạch thì cần có hạ tầng như trạm sạc và các dạng nhiên liệu khác cũng phải có trạm tiếp nhiên liệu. Do vậy, nếu chuyển tất cả các phương tiện xe máy dùng xăng sang dùng điện thì sẽ gây áp lực lên hạ tầng kỹ thuật đường dây.
Có thể thấy, việc phát triển hạ tầng trạm sạc và lưới điện là điều kiện then chốt cho chuyển đổi xe điện. Việc thiếu hệ thống trạm sạc đồng bộ và lưới điện đủ năng lực đang là rào cản lớn trong lộ trình chuyển đổi sang xe điện.
Theo ông Nguyễn Đông Phong - Giám đốc Trung tâm thử nghiệm khí thải xe cơ giới đường bộ (Cục Đăng Kiểm Việt Nam), khi hiện thực hóa việc chuyển đổi xe máy chạy xăng sang xe điện, TP. Hà Nội cần giải quyết bài toán về hệ thống trạm sạc và đơn vị cung cấp điện. Mặt khác, phải giải quyết triệt để bài toán về rác thải pin như giảm thiểu việc thải bỏ pin, tái chế và chuyển mục đích sử dụng pin.
Trong khoảng thời gian rất ngắn (1-2 năm), TP. Hà Nội sẽ phải giải 2 bài toán khó.
Một là đẩy nhanh hơn nữa phát triển mạng lưới giao thông công cộng của thủ đô, vốn rất ì ạch nhiều năm nay, để hạn chế ùn tắc giao thông.
Hai là thách thức chuyển đổi hàng triệu phương tiện từ xe chạy xăng dầu sang xe điện, xe hybrid (xe máy và ô tô cá nhân) đi kèm với bài toán hạ tầng trạm sạc, tái chế pin, hỗ trợ người dân lao động thu nhập thấp...
Tại TP. Hà Nội, mạng lưới trạm sạc hiện còn phân bố thưa thớt, thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật thống nhất về công suất, an toàn và kết nối. Nhiều khu dân cư, chung cư cũ không có điều kiện lắp đặt hạ tầng sạc, dẫn đến sự chênh lệch lớn trong khả năng tiếp cận giữa các nhóm dân cư. Việc tìm được điểm sạc thuận tiện, an toàn và phù hợp với lịch trình di chuyển hàng ngày là một trở ngại lớn, nhất là tại các khu vực đông dân cư.
Lưới điện hiện hữu cũng chưa được thiết kế để đáp ứng nhu cầu sạc đồng loạt, đặc biệt tại các khu vực đông dân cư và vào giờ cao điểm. Tình trạng quá tải cục bộ, sụt áp hoặc mất an toàn có thể xảy ra nếu không có giải pháp tăng cường công suất, phân bổ tải hợp lý và áp dụng công nghệ quản lý điện năng thông minh.
Ngoài ra, mối lo ngại về an toàn cháy nổ khi sạc xe điện, nhất là tại các chung cư cũ có hệ thống điện đã xuống cấp, cũng ngày càng gia tăng. Khi nhiều phương tiện cùng sạc trong không gian kín như tầng hầm mà không có hệ thống giám sát, cảnh báo và xử lý sự cố phù hợp, nguy cơ xảy ra sự cố nghiêm trọng là điều không thể xem nhẹ.

Những yếu tố này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc hoàn thiện quy chuẩn kỹ thuật, nâng cấp hạ tầng và triển khai các biện pháp kiểm soát an toàn đồng bộ trước khi mở rộng lộ trình áp dụng xe điện trên diện rộng. Và việc này cũng đòi hỏi cần phải có thời gian để thực hiện, chứ không thể ngay lập tức trong một vài tháng.

Tại TP. Hà Nội, nhiều thời điểm ghi nhận mức độ ô nhiễm không khí đứng số 1 thế giới và thường xuyên góp mặt trong nhóm các thành phố có mức độ ô nhiễm cao trên thế giới. Nghiên cứu về cơ sở dữ liệu kiểm kê phát thải không khí toàn diện cho Hà Nội cho thấy: Tổng lượng PM2.5 ở Hà Nội vào năm 2022 của xe máy chiếm 4,5% (theo Báo cáo của PGS. TS Hồ Quốc Bằng tại trong Hội thảo về phòng, chống ô nhiễm không khí và cải thiện chất lượng không khí cho các đô thị lớn ở Việt Nam ngày 24 – 25/4/2025).