Những tác động từ cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam
Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã để lại hệ quả cho nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước tăng trưởng chủ yếu dựa vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài có nền kinh tế mở như Việt Nam. Do đó, nền kinh tế và cả hệ thống tài chính Việt Nam khó có thể tránh khỏi những “chấn động” trong khủng hoảng tài chính và sự suy thoái kinh tế toàn cầu.
Lạm phát và rủi ro tài chính tăng cao
Từ năm 2008 đến nay, Việt Nam chứng kiến nhiều sự xáo trộn mạnh mẽ về kinh tế vĩ mô, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái thế giới. Cụ thể, nền kinh tế Việt Nam không chỉ suy giảm về tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn bộc lộ rõ những yếu kém và bất ổn. Lạm phát tăng đến mức kỷ lục trong năm 2008, đồng thời với đó là rủi ro tài chính tăng cao. Mặc dù, chính sách tài chính thắt chặt để đối phó với lạm phát cao đã được thực hiện ngay trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra. Tiếp theo đó là các gói kích thích kinh tế được đưa ra vào đầu năm 2009 nhằm “giải cứu” doanh nghiệp (DN) khỏi bờ vực phá sản, duy trì sản xuất và giải quyết việc làm, hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, hệ lụy của các gói kích cầu đã khiến nền kinh tế rơi vào trạng thái tái lạm phát; thâm hụt ngân sách; thị trường ngoại hối, thị trường vàng, thị trường bất động sản xáo trộn.
“Cú sốc” mạnh về lãi suất
Lạm phát tăng cao, khiến mặt bằng lãi suất theo đó tăng vọt. Liên tiếp trong tháng 5-6/2008, lãi suất cơ bản lần lượt được nâng lên ở mức 12%- 14%, biên độ dao động là 150%. Có thời điểm, lãi suất huy động đã vượt trên 20%/năm. Trong khi, các tổ chức tín dụng (TCTD) và các ngân hàng thương mại (NHTM) lại khước từ yêu cầu tín dụng của DN… Chính những liệu pháp này đã gây “cú sốc” mạnh mẽ tới nền kinh tế và cộng đồng DN. Tuy nhiên, “sống chung với bão” DN buộc phải chấp nhận dùng liều thuốc “lãi suất cao” để tồn tại và thời kỳ phân hóa giữa các DN dựa trên tiêu chí năng lực cạnh tranh đã bắt đầu diễn ra mạnh mẽ!
Nợ xấu ám ảnh
Cùng với đó, một “mặt bằng mới” - tăng trưởng tín dụng đã được thiết lập. Một mặt, nó gắn với định hướng điều hành chính sách tiền tệ tập trung kiềm chế lạm phát, mặt khác phản ánh trở ngại lớn dần từ nợ xấu và là kết quả của cầu tín dụng yếu khi sản xuất kinh doanh khó khăn, nhiều DN suy yếu qua ảnh hưởng khủng hoảng và hàng tồn kho tăng cao. Số liệu của Vụ Tín dụng (NHNN) cho thấy, tỷ lệ nợ xấu (cho các DN nhỏ và vừa vay) của hệ thống ngân hàng tính đến 31/7/2008 là 3,64% (khoảng 10.886 tỷ đồng), tăng 1% so với 2007. Nếu đánh giá trên năng lực trả nợ đúng hạn, phần đông DN hoạt động ở mức trung bình, tỷ lệ gặp khó khăn gần 4%, trong đó khoảng 1,5% có nguy cơ mất vốn. Giai đoạn từ năm 2007-2012, chứng kiến phần lớn DN hoạt động dựa vào các khoản nợ. Chỉ số nợ của các DN luôn lớn hơn kỳ vọng chuẩn. Chỉ số nợ của các DN trong giai đoạn đã tăng từ 1,6 lên 2,3 lần và giảm xuống 2 lần vào cuối năm 2012. Từ 2012 đến nay, nợ xấu đã trở nên nhức nhối khi vượt xa ngưỡng 3% và hiện nay vẫn chưa cho thấy một sự dịu bớt rõ ràng và bền vững.
Số lượng doanh nghiệp phá sản và cầm chừng tăng cao
Khủng hoảng kinh tế đã làm cho các DN vừa và nhỏ của Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, một phần bị từ chối hợp đồng, sản phẩm tiêu thụ chậm, hàng tồn kho ngày càng nhiều. Phần thì chịu ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín dụng ngân hàng làm lãi suất cho vay cao vượt xa khả năng của DN. Nợ xấu ngân hàng ngày càng có xu hướng gia tăng. Sự suy yếu của môi trường kinh doanh đi liền với sự đóng băng tín dụng đã buộc hơn 5 vạn DN rời khỏi thị trường, khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh. Khảo sát của Tổng cục Thống kê cho thấy, tình trạng thua lỗ của các DN thực sự tăng vọt từ năm 2011, đặc biệt là ở khối ngoài quốc doanh.
Từ năm 2010 đến nay, số lượng DN thành lập mới lần đầu tiên có xu hướng giảm xuống kể từ khi Luật DN có hiệu lực. Bên cạnh đó, số DN rời thị trường cũng chiếm tỷ trọng đáng kể. Trong khoảng 600.000 DN đã đăng ký thành lập, đến nay chỉ còn gần 380.000 đơn vị hoạt động, trong số này có tới 70% làm ăn không có lãi. Điều này cho thấy khó khăn của DN vẫn còn đấy như sự suy giảm của thị trường trong nước, niềm tin giảm xuống do sức mua của nền kinh tế xuống rất thấp.
Tín hiệu tổn thương từ những nguyên nhân khác
Không chỉ riêng bài toán về nguồn vốn tín dụng, giải quyết hàng tồn kho, còn nhiều nguyên nhân khác khởi nguồn từ “cơn sóng thần thế kỷ” vẫn tiếp tục đeo bám, ám ảnh các nhà quản trị kinh doanh và gây đau đầu đối với toàn hệ thống chính trị trên mọi phương diện mãi cho tới nay. Từ năm 2008 - 2010, nền kinh tế chứng kiến sự suy giảm của tỷ lệ đầu tư toàn xã hội xuống còn 40-41%. Tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP giảm xuống 34,6% (năm 2011); năm 2012 giảm tiếp xuống còn 33,5% và năm 2013 còn 30,4%. Xu hướng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) giảm sút cũng là tín hiệu cho thấy khả năng tăng trưởng dễ bị tổn thương và chưa bền vững của nền kinh tế. Theo tính toán sơ bộ của các cơ quan chức năng thì mức đóng góp của TFP ở mức dưới 1,8% trong tăng trưởng. Như vậy, tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua vẫn được thực hiện theo chiều rộng và nghiêng nhiều hơn về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Tình trạng này kéo dài ảnh hưởng đến sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế Việt Nam.
Bài học kinh nghiệm và cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam
Bài học kinh nghiệm
Những hệ quả mà cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 để lại đã cho thấy tầm quan trọng của việc ổn định và lành mạnh hóa chính sách kinh tế vĩ mô. Duy trì tăng trưởng kinh tế là một điều kiện cần thiết nhưng lại phải đi đôi và gắn chặt với ổn định kinh tế vĩ mô. Tập trung nguồn lực nhằm đạt tăng trưởng bằng mọi giá có thể để lại những nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế xã hội trong dài hạn.
Khủng hoảng và suy thoái kinh tế tuy là thách thức nhưng cũng là cơ hội để nâng cao khả năng cạnh tranh và tính thích nghi của các DN Việt Nam. Các vấn đề quản trị DN, quản trị rủi ro, tái cấu trúc hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như đầu tư vào công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, năng suất lao động, đào tạo kỹ năng cho lao động cần được các DN thực hiện nghiêm túc thì mới có hiệu quả.
Là một nước đang phát triển, tích cực tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần chủ động lựa chọn giải pháp và tận dụng những cơ hội để đối phó với những thách thức của cuộc khủng hoảng. Những kết quả tích cực đạt được đối với các giải pháp kích cầu của Chính phủ trong thời gian qua, đặc biệt là đối với kích thích hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của DN, cũng như bảo đảm an sinh xã hội cho người nghèo, người có thu nhập thấp, người lao động mất việc làm… đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên cũng cần tiếp tục theo dõi những giải pháp này để có những thay đổi, điều chỉnh kịp thời.
Đồng thời, Việt Nam cũng cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, hệ thống giám sát tài chính, xây dựng những nền tảng cơ bản cho phát triển thị trường vốn, thị trường đất đai, bất động sản… Ngoài ra, chú trọng hơn nữa đến thị trường nội địa, ngăn chặn nhập siêu thái quá, hoàn thiện nhanh thể chế kinh tế thị trường; Điều chỉnh chính sách nhằm vừa thúc đẩy sản xuất kinh doanh và ngăn chặn nguy cơ tái lạm phát; Tranh thủ thời cơ thuận lợi để thu hút vốn đầu tư có hiệu quả vào nền kinh tế; Cải cách cơ cấu các ngành và sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh và hợp tác quốc tế; Bảo đảm an sinh xã hội và cải cách hành chính mạnh mẽ hơn nữa.
Các nhóm giải pháp cụ thể trước mắt và giải pháp lâu dài cần tập trung là: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trong điều kiện mới; Tạo nền tảng cho phát triển bền vững; Đề phòng nguy cơ lạm phát trên toàn cầu do thâm hụt ngân sách từ các gói kích thích kinh tế khổng lồ trên thế giới. Tăng cường vai trò và năng lực quản lý, giám sát của Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng, bảo đảm sự vận hành an toàn, thông suốt và cân đối của các thị trường…
Chính sách thương mại cần hướng vào phát triển thị trường trong nước, tăng tiêu dùng và đầu tư nội địa, quan tâm hơn đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho thị trường nội địa. Mặt khác, cần tiếp tục đẩy mạnh và khuyến khích xuất khẩu thông qua cơ chế thuế, lãi suất, tỷ giá, xúc tiến thương mại, thủ tục hải quan… từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; Đồng thời cần hướng xuất khẩu vào việc khai thác các thị trường tiềm năng, mở rộng thị trường và tăng thị phần vào các thị trường truyền thống.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành, nâng cao tỷ trọng giá trị gia tăng công nghiệp trên giá trị sản xuất công nghiệp; Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, phát triển công nghiệp hỗ trợ; Phát triển nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp mới; Gắn phát triển nguồn nhân lực với phát triển thị trường lao động, đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, để thu hút mạnh mẽ vốn FDI cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, công khai, minh bạch, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước.
Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam
- Cơ hội gia tăng thị phần:
Khủng hoảng không dành riêng cho DN nào. Khủng hoảng tác động tiêu cực đến DN nhưng cũng gây khó cho cả đối thủ cạnh tranh. Đối thủ càng lớn, khó khăn có thể càng nhiều.Đây là cơ hội để DN yếu thu hẹp khoảng cách và tìm cách vượt lên DN mạnh. DN khôn ngoan sẽ tranh thủ giai đoạn khó khăn để giành lấy thị phần từ đối thủ. Trong khủng hoảng, các DN lớn thường cắt giảm ngân sách tiếp thị, đây là cơ hội “ngàn năm có một” cho DN nhỏ gia tăng thị phần.
- Cơ hội xây dựng thương hiệu:
Khi chưa có khủng hoảng, các thương hiệu lớn, với ngân sách tiếp thị hùng hậu, thường tung ra các chương trình marketing “bom tấn” để thúc đẩy bán hàng, gia tăng độ nhận biết thương hiệu. Các chương trình marketing ngoài tác dụng hỗ trợ bán hàng, quan trọng hơn, thu hút sự chú ý của khách hàng mới và nhắc nhở khách hàng cũ về sự tồn tại và phát triển không ngừng của thương hiệu. Các thương hiệu nhỏ nên tranh thủ lúc các “ông lớn” giảm “loa” để lên tiếng “nhẹ nhàng” và gia tăng độ nhận biết, từ đó gia tăng sức mạnh thương hiệu.
- Cơ hội thu hút người tài:
Khủng hoảng làm gia tăng thất nghiệp. Nhiều công ty lớn, kể cả công ty có vốn đầu tư nước ngoài bị buộc phải cắt giảm nhân sự. Đây là cơ hội để các công ty Việt Nam “mua” vào, đầu tư cho con người; Tương tự như đầu tư, mua máy móc thiết bị giảm giá với chất lượng không giảm trong giai đoạn khủng hoảng.
- Cơ hội sàng lọc nhà cung cấp:
Khủng hoảng làm cho các nhà cung cấp bớt “chảnh” và là cơ hội để các DN nhỏ và vừa đánh giá, lựa chọn nhà cung cấp tốt nhất cho mình. DN còn có thể đàm phán lại giá cả, chất lượng hàng hóa, điều kiện thanh toán, phương thức giao hàng…
- Cơ hội nâng cao chất lượng sản phẩm:
Khủng hoảng làm giảm sản lượng sản xuất. Đây là cơ hội để DN có điều kiện chăm sóc cho chất lượng sản phẩm. Đồng thời, tranh thủ xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 hoặc các tiêu chuẩn khác như ISO 14000, HACCP, GMP…
- Cơ hội bảo trì, nâng cấp máy móc thiết bị:
Sản xuất giảm cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thời gian cải thiện và nâng cấp máy móc, thiết bị. Bởi khi DN có quá nhiều đơn hàng phải giải quyết, các chương trình bảo trì, bảo dưỡng định kỳ thường bị quên lãng. Hậu quả là máy móc ngày càng kiệt quệ, dẫn đến chất lượng sản phẩm cũng bị ảnh hưởng rất nhiều.
- Cơ hội chăm sóc sức khỏe doanh nghiệp:
Hệ thống quản lý rời rạc, thiếu tính hệ thống, nguồn nhân lực yếu kém, không theo kịp với sự phát triển của DN, môi trường làm việc và văn hóa DN có nhiều bất cập, chiến lược kinh doanh được xây dựng tự phát theo cảm tính… khi gặp sự cố dễ làm cho DN bị sốc và “ngã quỵ”. Giai đoạn khủng hoảng cũng là cơ hội để DN tư duy và đánh giá lại chính mình, từ đó có kế hoạch nâng cấp sức khỏe để đối phó với khủng hoảng trước mắt cũng như tạo nền tảng lâu dài về sau.
Giải pháp giúp doanh nghiệp vươn lên sau khủng hoảng
Đúng như ông cha đã đúc kết, “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, “cái khó ló cái khôn”, trong khó khăn mới có thể nhìn lại chính mình và tự tìm cho mình một lối thoát! TS. Nguyễn Đức Hưởng, Phó Chủ tịch Thường trực HĐQT LienVietPostBank đã từng chia sẻ, rủi ro rất đáng sợ nhưng nếu quản trị được rủi ro sẽ có siêu lợi nhuận. Điều quan trọng hơn cả là lúc lâm nguy đối với nền kinh tế quốc gia “mình phải tự cứu mình”. Trên cơ sở nhận diện những tác động của “cơn sóng thần thế kỷ” đối với nền kinh tế Việt Nam, nghiên cứu đề xuất một số hướng đi nhằm giúp DN Việt vươn lên sau cơn khủng hoảng:
Thứ nhất, DN cần lường trước sự khó khăn, hợp tác liên kết kinh doanh và tận dụng cơ hội khai thác thị trường mới trong thời kỳ khủng hoảng toàn cầu.
Trong khủng hoảng vẫn có những cơ hội nếu chúng ta biết đón bắt nó, ngay từ thời điểm này các DN phải cùng hợp tác, liên kết khai thác thế mạnh trên các thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật. Đồng thời, nhanh chân mở rộng, tìm kiếm thị trường mới như: Trung Đông, Ai Cập… Hiện nay, các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như gạo, chè, thủy sản, rau quả, may mặc… đã và đang xâm nhập vào những thị trường này nhưng vẫn còn rất yếu, các DN cần nắm bắt các thông tin nhanh chóng, kịp thời, bởi đây sẽ là một thị trường tiềm năng cho các DN trong tương lai. Đồng thời phải tạo cơ hội cho mình, hợp tác, xác định làm ăn lâu dài, khẳng định tiềm năng, thương hiệu, trên mảnh đất mới này. Không chỉ dừng lại ở thị trường Ai Cập mà còn phải vươn xa, vươn rộng trên “mảnh đất màu mỡ” này thông qua con đường Ai Cập. Đối với thị trường nội địa - thị trường được đánh giá thiếu tính ổn định, tập trung đầu tư công nghệ tham gia vào khâu chế biến, bảo quản và phân phối sau thu hoạch tại những vùng sản xuất trọng điểm của đất nước. Như vậy, sau cơn khủng hoảng các DN vừa có thị trường truyền thống vừa mở rộng thị trường quốc tế mới.
Thứ hai, Nhà nước cần luôn dõi theo và đưa ra những định hướng hỗ trợ kịp thời, hiệu quả cho DN trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn.
Cụ thể là đa dạng hóa các hình thức xuất khẩu, quan tâm nhiều hơn đến các kênh phân phối tại nước nhập khẩu; Tổ chức hội chợ, quảng bá thương hiệu, quảng bá hình ảnh của các DN Việt Nam. Bên cạnh đó, hỗ trợ cho các DN lớn mở các văn phòng đại diện ở những thị trường năng động và tiềm năng; Xác định khách hàng và tìm kiếm khách hàng; Theo dõi tình hình thị trường; Giảm thiểu rủi ro cho nhà xuất khẩu; Tiếp cận thị trường nhanh; Khai thác các lợi thế mà các DN Việt Nam có lợi thế cạnh tranh và xuất khẩu lợi thế cạnh tranh đó đến nước sở tại. Đồng thời, thông qua các Lãnh sự quán các nước, Nhà nước tìm kiếm các đối tác tạo điều kiện để các DN, dễ dàng tiếp xúc và xúc tiến đàm phán thương mại nhằm tìm thị trường mới.
Thứ ba, kiên định chính sách Nhà nước và DN thắt lưng buộc bụng, vượt khó khăn.
Những khó khăn mà khủng hoảng toàn cầu mang lại đã làm cho hoạt động xuất khẩu và sản xuất kinh doanh của phần lớn DN gặp khó khăn, một số DN co cụm sản xuất hoặc đóng cửa, ngừng hoạt động… Được biết, để hỗ trợ DN, Nhà nước cũng đã kịp thời chỉ đạo các ngân hàng khoanh nợ, giãn nợ và tiếp tục cho vay. Bên cạnh đó, áp dụng hàng loạt biện pháp quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát với chính sách tài khóa, giảm hạn mức cho vay đầu tư bất động sản và chứng khoán, hạn chế lưu thông tiền mặt, cho tạm hoãn, giãn tiến độ thi công một số công trình đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả, tập trung vốn cho các công trình mang lại hiệu quả kinh tế như: Nhà máy điện, Nhà máy lọc dầu… đồng thời, hạn chế thất thu thuế, tích cực thu thuế, giải quyết nợ đọng.
Thứ tư, chính sách tài khóa và tiền tệ cần được điều hành một cách linh hoạt. Như vậy mới tạo được điều kiện cho các DN tiếp cận nguồn vốn hiệu quả.
Trong khủng hoảng vẫn có những cơ hội phát triển nếu biết đón bắt nó, các DN phải tăng cường hợp tác, liên kết khai thác thế mạnh trên các thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản. Đồng thời, nhanh chân mở rộng, tìm kiếm thị trường mới như: Trung Đông, Ai Cập…
Cụ thể, linh hoạt điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu, cũng như thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng nhằm tránh những hiện tượng tiêu cực mang tính dây chuyền với thị trường trong nước và có giải pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Đồng thời, Nhà nước cần phải quản lý chặt việc giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, gây sức ép lên tỷ giá. Thông qua ngân hàng Nhà nước, tiến hành thực hiện nghiệp vụ bán ngoại tệ làm giảm và bình ổn tỷ giá trên thị trường, tạo điều kiện cho các DN có nhu cầu nhập khẩu…. Ngoài ra, hỗ trợ cho DN mở rộng sản xuất và xuất khẩu; Kích thích cho các DN trong nước cùng phát triển sản xuất, bình ổn cuộc sống. Đặc biệt, Nhà nước phải sử dụng công cụ quản lý vĩ mô nhằm điều chỉnh thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển nhanh, mạnh, chất lượng, phù hợp với thị hiếu thị trường trong thời kỳ khó khăn này, khuyến khích các DN tăng cường mở rộng thị trường và thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu.
Thứ năm, các DN Việt Nam quan tâm nhiều hơn tới sự hỗ trợ của người tiêu dùng trong nước.
Do chạy theo lợi nhuận xuất khẩu, thị trường nội địa 86 triệu dân, đầy tiềm năng dường như vẫn chưa được DN quan tâm đúng mức. “Người Việt nam hãy dùng hàng Việt Nam”, sự khích lệ đó khiến người tiêu dùng Việt Nam sẵn sàng đón nhận sản phẩm của mình một cách tự hào. Nhìn lại thời điểm diễn ra cơn khủng hoảng (2008 - 2010) sản phẩm Việt Nam tràn đầy các siêu thị. Từ nam chí bắc, mỗi người có trách nhiệm góp sức mình, dùng sản phẩm mình là yêu nước, người tiêu dùng hiểu được điều đó thì các DN phải có trách nhiệm đảm bảo tốt sản phẩm, tôn trọng người tiêu dùng.
Thứ sáu, Nhà nước cần có cơ chế tạo sự thông thoáng môi trường thu hút đầu tư.
Để thu hút vốn đầu tư và nâng cao năng lực sản xuất mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và các sản phẩm sản xuất, bình ổn thị trường, hạn chế lạm phát… thì chính sách vĩ mô phải tạo thuận lợi cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, chính sách địa phương cũng phải thông thoáng ngay từ khâu thực hiện thủ tục ban đầu; Hệ thống cơ sở hạ tầng phải được đầu tư nâng cấp và sửa chữa. Đặc biệt, địa phương phải có kế hoạch tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao trước khi kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực có thế mạnh. Đồng thời, có chính sách hấp dẫn khuyến khích các nhà đầu tư phát triển, đôi bên cùng có lợi. Thực tế, qua môi trường đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, các DN Việt Nam, sẽ có những bài học tốt cho sản phẩm và cơ hội để nhìn lại sản phẩm của mình trên thị trường nội địa.
Sự khủng hoảng xảy ra trên thế giới với quy mô toàn cầu. Nó khiến nhiều quốc gia (Hi Lạp, Pakistan…) đứng bên bờ vực phá sản và làm cho bao nhiêu DN điêu đứng, … Việt Nam, mặc dù cũng bị ảnh hưởng khủng hoảng khá nặng nề nhưng con thuyền, kinh tế Việt Nam đã nỗ lực vượt qua cơn nguy kịch và dần đi vào ổn định phát triển, cho dù đến nay dư âm của cuộc khủng hoảng vẫn chưa dứt.
Trong bối cảnh ngày càng hội nhập sâu rộng, để nâng cao hơn nữa sức đề kháng của nền kinh tế, Việt Nam cần phải xác định định hướng phát triển trong dài hạn, từ đó có sự lựa chọn thứ tự ưu tiên các mục tiêu phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường trong từng giai đoạn nhất định. Tăng trưởng trước đây luôn được xem là một chỉ số quan trọng của phát triển. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, tăng trưởng số lượng phải đi liền với chất lượng, tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã hội mới là mục tiêu quan trọng, đảm bảo phát triển bền vững, duy trì tăng trưởng lâu dài.
Tài liệu tham khảo:
1. Tổng cục Thống kê, http://www.gso.gov.vn;
2. Viện Khoa học Pháp lý và kinh doanh quốc tế, http://www.ibla.org.vn;
3. Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách, http://www.cepr.org.vn.
4. VCCI, Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2013.
Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
(Tài chính) Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là hệ thống doanh nghiệp thời gian qua. Trên cơ sở nhận diện những tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế của Việt Nam, bài viết rút ra những cơ hội cũng như giải pháp giúp doanh nghiệp Việt Nam vươn lên sau khủng hoảng.
Xem thêm