Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ trình bày tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII
Vừa qua, cổng Thông tin điện tử Chính phủ đã giới thiệu Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, ngày 20/10/2014. Dưới đây là toàn văn Báo cáo:
Thưa Quốc hội,
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,
Thưa đồng chí đồng bào,
Theo chương trình Kỳ họp, Chính phủ gửi đến Quốc hội 49 báo cáo về các lĩnh vực của đất nước. Hôm nay, thay mặt Chính phủ, tôi xin trân trọng báo cáo Quốc hội và đồng bào cả nước những nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015.
Phần thứ nhất
Chúng ta thực hiện nhiệm vụ năm 2014 trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp. Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Xung đột xảy ra ở nhiều nơi. Căng thẳng trên biển Hoa Đông và biển Đông.
Khó khăn thách thức là rất lớn. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ đã triển khai quyết liệt, đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm các giải pháp thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2014 theo Nghị quyết của Quốc hội. Hàng tháng đều có kiểm điểm, đánh giá và điều chỉnh, bổ sung.
Với sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, đồng bào cả nước và cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế xã hội nước ta tiếp tục chuyển biến tích cực. Trên cơ sở kết quả 9 tháng đầu năm và ước thực hiện các tháng cuối năm, Chính phủ xin báo cáo những nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015 như sau:
1. Về kinh tế vĩ mô
Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô ổn định tốt hơn. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, 9 tháng tăng 2,25%, thấp nhất trong 10 năm qua; dự kiến cả năm tăng dưới 5%. Mặt bằng lãi suất giảm khoảng 2% so với cuối năm 2013. Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 9 đạt 7,26% (cùng kỳ là 6,87%), dự kiến cả năm tăng 12 - 14% theo kế hoạch. Tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định; dự trữ ngoại tệ tăng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên.[1]
Xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng khá cao. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng tăng 14,4%. Xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước tăng 13% (cùng kỳ tăng 3%). Nhiều mặt hàng xuất khẩu tăng cao (hạt tiêu tăng 41,5%, cà phê tăng 31%, giầy dép tăng 24,5%, hạt điều tăng 23,7%, thủy sản tăng 23,7%, máy móc, thiết bị, phụ tùng tăng 22,1%, dệt may tăng 19%, điện thoại và các loại linh kiện điện tử tăng 11,3%). Nhập khẩu tăng 11,6%, chủ yếu là máy móc, thiết bị và nguyên nhiên vật liệu. Ước cả năm xuất khẩu khoảng 148 tỷ USD, tăng 12,1%; nhập khẩu khoảng 146,5 tỷ USD, tăng 11%. Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế tổng thể tiếp tục thặng dư.[2]
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 9 tháng tăng 10,3% so với cùng kỳ, ước cả năm bằng khoảng 30,1% GDP. Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tăng 12,8%, ước cả năm tăng 5,45%. Vốn FDI thực hiện đạt 8,9 tỷ, tăng 3,2%, ước cả năm đạt 12,5 tỷ USD, tăng 8,7%. Vốn ODA giải ngân đạt 4,1 tỷ, tăng 10%, ước cả năm đạt 5,5 tỷ USD, tăng 7,1%. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ ước cả năm tăng khoảng 18,3%.[4]
Kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế chưa vững chắc. Bội chi ngân sách còn cao. Nợ công tăng nhanh. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược nợ công là không quá 25%) nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay lại thì khoảng 26,2%.[6] Tổng cầu tăng chậm. Tăng trưởng tín dụng chậm trong những tháng đầu năm. Nợ xấu còn cao, xử lý còn chậm. Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển chưa đáp ứng yêu cầu. Thị trường chứng khoán phát triển chưa vững chắc. Thị trường bất động sản phục hồi chậm. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Quản lý thị trường, phòng chống gian lận thương mại, chuyển giá hiệu quả chưa cao.[7]
Tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp như thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, tín dụng, đất đai, xây dựng, thành lập và giải thể doanh nghiệp, thủ tục đầu tư, tiếp cận điện năng... Môi trường kinh doanh có bước được cải thiện, huy động và sử dụng ngày càng tốt hơn các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới tăng 13,9%, vốn đăng ký bình quân mỗi doanh nghiệp tăng 24,6%; số doanh nghiệp hoạt động trở lại tăng 5,1%.[8]
Môi trường đầu tư kinh doanh và năng lực cạnh tranh cải thiện còn chậm. Thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc. Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn. Doanh nghiệp còn khó tiếp cận vốn tín dụng. Năng lực tài chính và quản trị của phần lớn doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn. Tỷ trọng đầu tư của khu vực ngoài nhà nước giảm.[10]
Tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế được tích cực triển khai thực hiện. Tăng cường quản lý, tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách và đẩy mạnh tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.
Đẩy mạnh thực hiện Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Cơ bản hoàn thành tái cơ cấu các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, giảm 7 tổ chức tín dụng, năng lực tài chính của ngân hàng thương mại tăng lên, an toàn hệ thống được bảo đảm. Đã xử lý 53,6% tổng số nợ xấu được xác định trong Đề án bằng thu hồi nợ, tái cơ cấu nợ, sử dụng dự phòng rủi ro và mua lại nợ xấu qua Công ty quản lý tài sản (VAMC).[11]
Đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Thực hiện các chính sách hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển chăn nuôi, khai thác nuôi trồng thủy sản, trồng rừng gỗ lớn và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa nông nghiệp. Nhân rộng các mô hình cánh đồng lớn, dồn điền đổi thửa, liên kết và hợp tác trong sản xuất kinh doanh. Phong trào xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, đến cuối năm 2014 dự kiến có khoảng 790 xã hoàn thành 19 tiêu chí (chiếm 8,8%).[13]
Tái cơ cấu kinh tế vẫn còn chậm. Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh còn thấp. Tốc độ đổi mới công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu. Công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm. Tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo và tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP còn thấp so với các nước trong khu vực. Doanh nghiệp trong nước chưa tham gia được nhiều vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới chưa đạt mục tiêu đề ra. Tái cơ cấu đầu tư công một số nơi triển khai chậm, nợ đọng xây dựng cơ bản vẫn còn lớn; việc thu hút đầu tư ngoài nhà nước vào phát triển kết cấu hạ tầng còn hạn chế. Vẫn còn một số tổ chức tín dụng yếu kém. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiệu quả chưa cao. Hiệu quả kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp.[15]
Tích cực triển khai Kế hoạch thi hành Hiến pháp, Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và Nghị quyết 67/2013/QH13 của Quốc hội. Tập trung ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền dân chủ của người dân.
Tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Cải cách hành chính được đẩy mạnh và đạt những kết quả tích cực. Đã hoàn thành việc quy định chức năng nhiệm vụ của các Bộ ngành, khắc phục cơ bản tình trạng chồng chéo hoặc bỏ trống nhiệm vụ trong quản lý nhà nước. Triển khai thực hiện Đề án cải cách chế độ công vụ công chức. Tiếp tục hiện đại hóa nền hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, công khai chỉ số cải cách hành chính, chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin của các Bộ ngành và địa phương. Đẩy mạnh thực hiện hành chính điện tử, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia. Tinh thần trách nhiệm và hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước có bước được nâng lên.[17]
Tiếp tục thực hiện chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ cao, sản phẩm quốc gia và chương trình chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Các quỹ quốc gia về phát triển khoa học và công nghệ đi vào hoạt động, bước đầu phát huy hiệu quả. Mở rộng áp dụng cơ chế đặt hàng, cơ chế khoán thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Phát triển thị trường công nghệ, dịch vụ tư vấn, thẩm định, giám định và phản biện. Tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ.[18]
Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa thật sự là khâu đột phá cho phát triển kinh tế xã hội. Cải cách hành chính và hoàn thiện hệ thống luật pháp chưa theo kịp yêu cầu. Kỷ luật kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm. Hiệu quả công tác kiểm tra thanh tra còn hạn chế. Chưa có chính sách đủ mạnh để phát triển nhanh và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao. Chất lượng giáo dục đại học và dạy nghề còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa đạt chỉ tiêu đề ra, lao động có chứng chỉ, bằng cấp còn thấp. Ứng dụng khoa học công nghệ còn chậm. Nguồn lực đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng còn hạn chế, chưa thu hút được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước, thiếu vốn đối ứng thực hiện các dự án ODA và dự án hợp tác công - tư. Mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu vận tải đa phương thức. Dịch vụ logistics phát triển chậm, tính đồng bộ chưa cao. Chưa chú trọng và chưa có cơ chế tạo đủ nguồn lực để bảo trì các công trình kết cấu hạ tầng. Nhiều công trình thủy lợi, giao thông xuống cấp trầm trọng. Hạ tầng ở các đô thị chưa đồng bộ, nhiều công trình quá tải, chất lượng thấp.
Trong điều kiện kinh tế có nhiều khó khăn nhưng vẫn bố trí tăng nguồn lực từ ngân sách nhà nước đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển văn hóa, xã hội và bảo đảm an sinh xã hội.
Tổng rà soát chính sách, thực hiện trợ cấp ưu đãi thường xuyên cho trên 1,5 triệu người và hoàn thành việc xây mới, sửa chữa khoảng 48 nghìn căn nhà cho người có công, trong đó có 13.500 căn nhà từ nguồn xã hội hóa. Công tác xác định hài cốt liệt sỹ, giải quyết hồ sơ tồn đọng được quan tâm chỉ đạo. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa trong xã hội được đẩy mạnh.
Thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững, quan tâm hỗ trợ hộ nghèo phát triển sản xuất, tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản và đầu tư phát triển hạ tầng ở những địa bàn đặc biệt khó khăn. Các chính sách nhà ở tránh lũ, nhà ở cho người nghèo, người thu nhập thấp được quan tâm. Thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo cả năm giảm khoảng 1,8 - 2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%. Trên 2,6 triệu người hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên. Trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số và ở vùng khó khăn được hỗ trợ chi phí học tập, sinh hoạt. Triển khai kịp thời các hoạt động cứu trợ đột xuất và khắc phục hậu quả thiên tai.[21]
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Tiếp tục đầu tư xây mới và nâng cấp mở rộng nhiều bệnh viện; riêng tuyến Trung ương tăng thêm 1.200 giường bệnh. Tình trạng quá tải ở nhiều bệnh viện được cải thiện. Tích cực cải cách thủ tục hành chính, giảm thời gian chờ đợi khám và chữa bệnh; xử lý kịp thời hơn phản ánh của người bệnh thông qua đường dây nóng. Chú trọng công tác y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh. Phát triển y tế biển đảo. Khuyến khích phát triển y tế ngoài công lập. Tăng cường quản lý giá, chất lượng thuốc chữa bệnh và kiểm tra các cơ sở y tế. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt khoảng 72%. Thực hiện tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp y tế công lập. Từng bước điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo lộ trình.
Quan tâm thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số; tổng rà soát việc thực hiện và đã ban hành Chỉ thị nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Chú trọng nâng cao hiệu quả công tác đối với người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ.[23]
Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tăng cường quản lý nhà nước, quan tâm đầu tư, khuyến khích xã hội hóa trong phát triển sự nghiệp văn hóa, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao và đã đạt được những kết quả tích cực. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao quốc tế được đẩy mạnh. Gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, nhiều di sản văn hóa được công nhận là di sản quốc gia và thế giới. Thực hiện tốt chính sách tôn giáo và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng theo quy định của pháp luật.
Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư còn lớn. Chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận dân cư nông thôn, vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn. Số người thiếu việc làm và việc làm không ổn định còn lớn, nhất là trong thanh niên. Nợ và chậm đóng bảo hiểm xã hội còn nhiều. Nguồn lực bảo đảm an sinh xã hội, trợ giúp xã hội còn hạn hẹp. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân một số mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều khó khăn. Quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, thể thao, thông tin truyền thông nhiều mặt còn hạn chế. Chưa bảo đảm tốt an ninh, an toàn mạng. Tệ nạn xã hội nhiều nơi còn phức tạp.[25]
Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương, rà soát và hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng cường quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tăng cường kiểm tra thanh tra, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và vi phạm pháp luật về môi trường. Các chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, ứng phó với biến đổi khí hậu được tích cực triển khai thực hiện. Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn, cảnh báo, dự báo thiên tai, bão, lũ, được tăng cường. Nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu kết hợp phòng tránh thiên tai được triển khai. Ý thức và năng lực phòng tránh thiên tai được nâng lên. Nhiều chỉ tiêu quan trọng về môi trường đạt kết quả tích cực.[27]
7. Về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình hành động về phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Tăng cường quản lý kinh tế, ngân sách nhà nước và tài sản công; cải cách thủ tục hành chính; kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; kê khai và kiểm soát kê khai tài sản; thực hiện công khai minh bạch và đề cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người đứng đầu. Xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, nhiều vụ án nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm đã được đưa ra xét xử.[28]
Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra. Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về phòng chống tham nhũng, lãng phí có mặt còn chậm. Việc thực hiện các giải pháp phòng chống tham nhũng tại nhiều cơ quan chưa hiệu quả. Một số vụ án xử lý chậm. Công tác kiểm tra thanh tra hiệu quả chưa cao. Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng còn thấp. Công tác giám định tư pháp còn bất cập. Lãng phí thời gian và nguồn lực trong xã hội còn lớn. Trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo của một số ngành, địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Khiếu kiện liên quan đến đất đai vẫn còn nhiều.
Tích cực thực hiện Nghị quyết Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tiềm lực quốc phòng an ninh và thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được tăng cường. Sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang được nâng lên. Ngăn chặn kịp thời các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. Kiên quyết đấu tranh bằng các giải pháp phù hợp bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế xã hội.
Trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được tăng cường, đã triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm. Kiên quyết ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, khẩn trương ổn định tình hình, thực hiện hỗ trợ phù hợp cho người lao động và các doanh nghiệp bị thiệt hại sớm trở lại sản xuất kinh doanh bình thường trong vụ việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển nước ta. Trật tự, an toàn giao thông được tập trung chỉ đạo quyết liệt; số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương tiếp tục giảm.[30]
Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức. Nhu cầu đầu tư cho quốc phòng an ninh rất lớn nhưng nguồn lực còn rất hạn hẹp. Trật tự an toàn xã hội có mặt còn bức xúc, tình hình tội phạm nhiều nơi còn phức tạp. Tai nạn giao thông còn ở mức cao. Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động và hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế chưa cao. Việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh và tham gia hoạt động khoa học công nghệ kết quả còn hạn chế.
Phần thứ hai
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
KINH TẾ XÃ HỘI NĂM 2015
I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6,2%; Tốc độ tăng giá tiêu dùng khoảng 5%; Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu ở mức 5%; Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP 5%; Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 30% GDP.
2. Về xã hội:
3. Về môi trường:
III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1.1. Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô
Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khoá, kiểm soát tốt lạm phát. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến lạm phát. Tăng dư nợ tín dụng phù hợp với yêu cầu tăng trưởng gắn với bảo đảm chất lượng tín dụng. Ổn định tỷ giá, thị trường ngoại hối, tăng dự trữ ngoại tệ và bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam. Thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh.
Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước; tập trung chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá; triệt để tiết kiệm chi ngân sách, không tăng chi thường xuyên ngoài lương; bảo đảm bội chi theo kế hoạch. Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo đảm nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn theo quy định.[33]
Tăng cường huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đa dạng hóa các kênh huy động vốn, các hình thức đầu tư. Có cơ chế phù hợp để tăng tính thương mại của các dự án, khuyến khích đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
1.2. Tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh
Thực hiện các biện pháp phù hợp để tăng tổng cầu và hỗ trợ phát triển thị trường. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư, tập trung vào các công trình quan trọng, cấp bách. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tín dụng. Quan tâm phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tập trung chỉ đạo và có biện pháp cụ thể đối với từng Bộ ngành, địa phương để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế chính sách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng nhanh công nghệ thông tin, tạo thuận lợi tối đa, giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp trong các lĩnh vực thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, đất đai, xây dựng, thành lập, giải thể và phá sản doanh nghiệp, thực hiện đầu tư, tiếp cận điện năng...
2. Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Tiếp tục thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế và tái cơ cấu ngành, lĩnh vực. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và đổi mới công nghệ, phát triển kinh tế xanh; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Triển khai Luật Đầu tư công, thực hiện kế hoạch đầu tư trung hạn. Đổi mới cơ chế chính sách, đa dạng hóa hình thức đầu tư (BOT, BT, PPP), phát triển mạnh thị trường vốn trong nước và chủ động tham gia thị trường vốn quốc tế, huy động các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Tập trung đầu tư hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, nước, logistics, nhất là các công trình có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế vùng và cả nước. Tăng cường phân cấp và xã hội hóa việc khai thác, bảo trì kết cấu hạ tầng.
Tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị và chất lượng tín dụng; giảm thiểu rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống. Hoàn thành Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Đẩy mạnh xử lý nợ xấu, phát triển thị trường mua bán nợ. Có cơ chế phù hợp để hoàn thiện chức năng, tăng thêm nguồn lực, nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty quản lý tài sản (VAMC). Bảo đảm đến hết năm 2015 đưa nợ xấu về mức khoảng 3% như kế hoạch đề ra.
Phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ, giá trị gia tăng và tỷ trọng giá trị nội địa cao. Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp chế biến chế tạo, điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, sản xuất vật tư và máy móc phục vụ nông nghiệp, vật liệu mới, khai thác chế biến dầu khí, năng lượng tái tạo, môi trường... Tạo thuận lợi phát triển phù hợp, lành mạnh thị trường bất động sản.
3. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách; thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, nhất là trong quản lý giá, phân bổ nguồn lực, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và vận hành hiệu quả các loại thị trường. Đồng thời có cơ chế chính sách điều tiết phân phối để thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; hỗ trợ phù hợp đối với các đối tượng chính sách, người nghèo và bảo đảm an sinh xã hội.
Tập trung cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực hiệu quả. Tiếp tục thực hiện Đề án cải cách công vụ công chức. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện tử, cơ sở dữ liệu quốc gia. Tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính, thanh tra kiểm tra, nâng cao hiệu lực hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo. Đổi mới chương trình, sách giáo khoa theo Nghị quyết của Quốc hội. Tăng cường giáo dục kỹ năng sống và văn hóa ứng xử. Tổ chức tốt kỳ thi trung học phổ thông quốc gia, tuyển sinh đại học, cao đẳng theo tinh thần đổi mới; tăng cường kiểm định chất lượng. Đẩy mạnh thực hiện thí điểm cơ chế giao quyền tự chủ cho các trường Đại học công lập. Tăng cường liên kết giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực giáo dục đào tạo; đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội. Ưu tiên nguồn lực thực hiện phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi. Rà soát hoàn thiện chính sách hỗ trợ về giáo dục đào tạo cho các địa bàn khó khăn và đối tượng chính sách, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện có hiệu quả Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên[36].
5. Phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
Tiếp tục thực hiện chính sách phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, hỗ trợ người có công về nhà ở và ưu đãi đối với lực lượng thanh niên xung phong. Có chính sách để giảm nghèo nhanh đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng mức trợ cấp xã hội đối với một số nhóm đối tượng đặc thù. Thực hiện hiệu quả các chương trình dạy nghề, giải quyết việc làm, nhất là cho thanh niên, lao động nông thôn và sinh viên mới tốt nghiệp. Có biện pháp phù hợp để giữ và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc đóng bảo hiểm xã hội và bảo đảm an toàn cho người lao động. Thúc đẩy phát triển nhà ở và các công trình phúc lợi xã hội cho người lao động tại các khu công nghiệp tập trung.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương về phát triển văn hóa, chú trọng phát triển toàn diện con người Việt Nam. Triển khai hiệu quả các chính sách phát triển văn học nghệ thuật. Đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Thực hiện tốt chính sách tôn giáo. Quan tâm chăm sóc và bảo vệ trẻ em, công tác gia đình, bình đẳng giới, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi. Phát triển thể dục thể thao cho mọi người, thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế. Tích cực thực hiện Luật Đất đai sửa đổi. Rà soát quy hoạch, tăng cường quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản và điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển. Khuyến khích phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm và xử lý nghiêm các vi phạm. Kiên quyết xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đẩy mạnh rà phá, khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh. Bảo vệ và phát triển rừng, nhất là rừng phòng hộ, rừng ngập mặn ven biển; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Nâng cao chất lượng dự báo, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công.
7. Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật và thực hiện các giải pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí. Công khai minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước, tăng cường kiểm tra thanh tra chế độ công chức công vụ. Đề cao trách nhiệm giải trình của cơ quan, người đứng đầu và cán bộ công chức viên chức. Thực hiện đúng quy định về kê khai và kiểm soát kê khai tài sản. Tăng cường hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng phòng chống tham nhũng. Xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan thông tin truyền thông và nhân dân trong phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo. Tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng kéo dài.
Tiếp tục thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có sức chiến đấu cao, chủ động ứng phó hiệu quả với mọi tình huống. Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Tăng cường tiềm lực, khả năng phối hợp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh cho các lực lượng trực tiếp ở cơ sở. Ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, ma túy, mua bán người; kiên quyết đấu tranh, triệt phá các băng nhóm tội phạm. Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng an ninh với phát triển kinh tế xã hội. Bảo đảm trật tự an toàn giao thông và tiếp tục giảm tai nạn giao thông.
Tiếp tục làm sâu sắc hơn, đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Tăng cường các hoạt động đối ngoại đa phương, chủ động tham gia và nâng cao vai trò của Việt Nam trong ASEAN, Liên hợp quốc, các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Chủ động đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do. Tăng cường công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ đất nước.
Chủ động thông tin kịp thời, khách quan về tình hình kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại và những vấn đề xã hội quan tâm. Tăng cường quản lý nhà nước, đề cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan thông tin truyền thông. Bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng. Làm tốt công tác thông tin truyền thông về các sự kiện quan trọng của đất nước.
*
* *
Thưa đồng chí đồng bào,
[1] Lãi suất huy động phổ biến hiện nay đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng là 5-6%/năm; kỳ hạn 6-12 tháng là 6-7,2%/năm; kỳ hạn trên 12 tháng là 7,3-7,8%/năm. Lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên là 7-8%/năm; cho vay sản xuất kinh doanh thông thường 9-10%/năm đối với ngắn hạn, 10,5-12%/năm đối với trung và dài hạn.
Lãi suất của các khoản vay cũ tiếp tục giảm. Đến 18/9/2014, dư nợ cho vay bằng VNĐ có lãi suất trên 15% chỉ còn chiếm 4,25% tổng số dư nợ cho vay VNĐ (cuối năm 2013 là 6,3%); dư nợ cho vay bằng VNĐ có lãi suất trên 13%/năm chỉ còn chiếm 12,16% tổng dư nợ (cuối năm 2013 là 19,72%).
Đến cuối tháng 9/2014, tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn tăng 6,9% (trong đó đối với lĩnh vực lúa gạo tăng 22,3%); dư nợ cho vay các chương trình tín dụng chính sách ước đạt trên 126,5 nghìn tỷ đồng, tăng 4% so với cuối năm 2013. Đến cuối tháng 8 năm 2014, tín dụng xuất khẩu tăng 4,14%; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 15,78%; công nghiệp hỗ trợ tăng 6,06%, doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 3,81% so với cuối năm 2013. Tín dụng bất động sản có xu hướng phục hồi, tăng 11,5% so với cuối năm 2013.
Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp đã được triển khai trên 63 tỉnh, thành phố trong cả nước; đến cuối tháng 9/2014, các ngân hàng thương mại cam kết hỗ trợ gần 7 nghìn khách hàng với tổng số tiền trên 108 nghìn tỷ đồng.
Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã nâng mức tín nhiệm đối với Việt Nam từ B2 lên B1 và đánh giá triển vọng ổn định. Ngày 9/10/2014, Moody’s có báo cáo đánh giá chất lượng tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam đã được cải thiện, quản trị ngân hàng đã được nâng cao.
[2] Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 109,9 tỷ USD, tăng 14,4%; trong đó kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản đạt 16,8 tỷ USD, tăng 15,1%; nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt 79,6 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng của các doanh nghiệp trong nước tăng 13% (cùng kỳ năm 2012 giảm 1,1%; năm 2013 tăng 3%), của các doanh nghiệp FDI (tính cả dầu thô) tăng 15,1% (cùng kỳ năm 2012 tăng 34%; năm 2013 tăng 22,4%).
Tổng kim ngạch nhập khẩu 9 tháng ước đạt 107,6 tỷ USD, tăng 11,6%; trong đó nhóm hàng cần nhập khẩu phục vụ sản xuất kinh doanh chiếm 88,4%. Xuất siêu năm 2012 là 748,7 triệu USD; 2013 là 0,3 triệu USD; 2014 ước 1,5 tỷ USD.
[3] Thu ngân sách nhà nước 9 tháng ước đạt 81,3% dự toán (cùng kỳ năm 2012 đạt 67,3%, năm 2013 đạt 66,5%), tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2013.
Dư nợ công cuối năm 2013 bằng 54,2%; dư nợ chính phủ bằng 42,3%; dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP. Dự kiến đến hết năm 2014, dư nợ công bằng 60,3%; dư nợ chính phủ 46,9%; dư nợ nước ngoài của quốc gia 39,9% GDP.
[4] Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng qua các quý; trong đó quý I tăng 7,2%; quý II tăng 9,3%; quý III tăng 13,4%; tính chung 9 tháng tăng 10,3%.
[5] Sau khi thực hiện các biện pháp bình ổn, giá sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi đã giảm và ổn định hơn; có mặt hàng giảm đến 34%. Thực hiện cơ chế mới về đấu thầu, giá thuốc chữa bệnh qua đấu thầu giảm bình quân 25-30%.
[6] Trong điều kiện kinh tế phát triển không thuận lợi, thu ngân sách nhà nước có nhiều khó khăn nhưng vẫn phải giảm thu để hỗ trợ doanh nghiệp. Và phải tập trung nguồn vốn ngân sách và huy động trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng. Đồng thời, còn phải dành phần lớn để thực hiện các chính sách xã hội và tiền lương. Mặt khác, cơ cấu vay ưu đãi nước ngoài có xu hướng giảm qua các năm do Việt Nam đã bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình nên tỷ trọng vay trong nước tăng lên và việc huy động trái phiếu Chính phủ chủ yếu là dưới 5 năm dẫn đến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ trong ngắn hạn tăng lên. Trong bối cảnh đó, chúng ta vẫn bảo đảm trả nợ đầy đủ, không để phát sinh nợ quá hạn. Dự kiến năm 2014 tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược nợ công là không quá 25%) nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay lại thì khoảng 26,2%.
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với giá trị xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ năm 2014 dự kiến khoảng 25,9% (theo quy định của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia là dưới 25%). Nguyên nhân là do nền kinh tế có bước phục hồi, nhu cầu vốn ngoại tệ để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tăng cao, các tổ chức tín dụng đã tận dụng cơ hội vay vốn nước ngoài ngắn hạn lãi suất thấp (chiếm khoảng 11,32%). Chính phủ sẽ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường quản lý việc vay ngắn hạn của các tổ chức tín dụng để năm 2015 bảo đảm trong giới hạn theo quy định.
[7] Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu giảm từ 45,8% năm 2010 xuống còn khoảng 33% trong 9 tháng năm 2014.
[8] Thủ tướng Chính phủ đã làm việc trực tiếp với các Bộ ngành, địa phương và chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp đơn giản hoá thủ tục hành chính, nhất là về thuế, hải quan, đất đai, xây dựng, thành lập, giải thể doanh nghiệp, thực hiện đầu tư, tiếp cận điện năng... với mục tiêu giảm ngay trong năm 2015 khoảng 50% thời gian thực hiện các thủ tục hành chính. Dự kiến đến cuối năm 2014 sẽ giảm được khoảng 290 giờ thực hiện thủ tục hành chính thuế (giảm 54% so với mức trước đây là 537 giờ) và phấn đấu đến năm 2015 bằng với mức trung bình của nhóm nước ASEAN-6 (171 giờ/năm, trong đó số giờ thực hiện thủ tục hành chính về thuế là 121 giờ/năm và nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là 50 giờ/năm). Về thủ tục thành lập, giải thể doanh nghiệp, dự kiến sẽ giảm 50% thời gian thực hiện thủ tục ngay trong năm 2014.
Trong 9 tháng đầu năm 2014 có 53,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký tăng 13,9%, vốn bình quân 1 doanh nghiệp là 6 tỷ đồng, tăng 24,6%, tạo việc làm cho hơn 795 nghìn lao động và có gần 11,9 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2013.
[9] Năm 2011, tăng trưởng GDP là 6,24%; năm 2012 là 5,25%; năm 2013 là 5,42%; năm 2014 dự kiến đạt trên 5,8%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 9 tháng tăng 6,7% (cùng kỳ năm 2013 tăng 5,4%). Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 3,5% (cùng kỳ tăng 2,7%); sản lượng lúa cả năm ước đạt 44,6 triệu tấn, tăng 1,1%; diện tích trồng rừng 9 tháng tăng 10,5%; sản lượng thuỷ sản tăng 4,9% so với cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 5,99%; tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,1%, loại trừ yếu tố giá tăng 6,2% (năm 2011 tăng 24%, loại trừ yếu tố giá tăng 4,6%; năm 2012 tăng 12,65%, loại trừ yếu tố giá tăng 6,2%; năm 2013 tăng 12,5%, loại trừ yếu tố giá tăng 5,7%).
Trong quý II, ngành du lịch chịu tác động tiêu cực của vụ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng biển nước ta, nhưng sau đó đã dần ổn định và số du khách đến Việt Nam đã tăng trở lại khá cao. Trong 9 tháng, khách từ Trung Quốc tăng 13,5%; Hàn Quốc tăng 10%; Nhật Bản tăng 8,1%; Liên bang Nga tăng 28,5%; Hoa Kỳ tăng 5,5%.
[10] Tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo của các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 8/2014 là 3,9%, tăng nhẹ so với mức 3,61% vào tháng 12/2013.
Trong 9 tháng đầu năm có trên 48 nghìn doanh nghiệp giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động, tăng 13,8% so với cùng kỳ.
Tỷ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân trong nước và dân cư giảm từ 37,6% năm 2013 còn dự kiến khoảng 36,2% năm 2014; của doanh nghiệp FDI giảm tương ứng từ 22% xuống còn 21,4%.
Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam 2014-2015 xếp thứ 68/144 quốc gia được xếp hạng. Thứ hạng này cao hơn so với năm 2012/2013 (75/144) nhưng lại thấp hơn nhiều so với năm 2010/2011 (59/144) và năm 2011/2012 (65/144). Riêng về thể chế kinh tế, Việt Nam xếp thứ 98 trong năm 2013/2014, tụt 9 bậc so với vị trí 89 trong năm 2012/2013.
[11] Đến hết tháng 9/2014 đã xử lý trên 53,6% tổng số nợ xấu thông qua thu nợ, bán phát mại tài sản đảm bảo, bán nợ, cơ cấu lại nợ và sử dụng dự phòng rủi ro; trong 9 tháng VAMC đã mua trên 50 nghìn tỷ đồng (tổng số nợ xấu đã mua lũy kế đến nay khoảng 90 nghìn tỷ đồng). Số dư quỹ dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng tính đến tháng 8/2014 là 78,5 nghìn tỷ đồng để tiếp tục xử lý nợ xấu. Tính bình quân chung, giá trị tài sản bảo đảm cao gấp hơn 2 lần số nợ vay. Tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống các tổ chức tín dụng tại thời điểm tháng 8/2014 là 12,42% (quy định pháp luật tối thiểu là 9%). Cơ cấu nguồn vốn của các tổ chức tín dụng dịch chuyển theo hướng ổn định hơn và ít phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng; trong đó tỷ lệ huy động trên thị trường liên ngân hàng trong tổng huy động giảm từ 17,9% vào tháng 12/2012 còn 15,6% vào tháng 12/213 và 13,73% vào tháng 9/2014.
[12] Trong 9 tháng đã sắp xếp 92 doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần hóa 71, giải thể 2, bán 1, sáp nhập 15 và đề nghị phá sản 3 doanh nghiệp. Trong kế hoạch cổ phần hóa 432 doanh nghiệp giai đoạn 2014-2015, đã có 368 doanh nghiệp thành lập được Ban chỉ đạo, 257 doanh nghiệp đang xác định giá trị doanh nghiệp, 123 doanh nghiệp đã có quyết định công bố giá trị doanh nghiệp, 71 doanh nghiệp đã được cổ phần hóa, trong đó có 35 doanh nghiệp đã bán đấu giá cổ phần lần đầu trên sàn giao dịch chứng khoán.
Năm 2013, tổng tài sản của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tăng 10,4% so với năm 2012; vốn chủ sở hữu tăng 15%; doanh thu tăng 5%; 101/108 tập đoàn, tổng công ty nhà nước có lãi; lợi nhuận trước thuế tăng 21%; tỷ suất lợi nhuận bình quân trên vốn chủ sở hữu 17,6%; nộp ngân sách nhà nước tăng 25%; hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu là 1,59 lần (theo quy định của pháp luật không quá 3 lần).
Trong 6 tháng đầu năm 2014, tổng doanh thu của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đạt 50,5%; tổng lợi nhuận trước thuế đạt 57,1%; tổng số nộp ngân sách nhà nước đạt 54,1% kế hoạch cả năm.
[13] Các địa phương đã xây dựng 9.000 mô hình sản xuất, ngân sách nhà nước hỗ trợ 8.400 tỷ đồng. Năm 2014 các địa phương trồng lúa đã có trên 300 nghìn ha cánh đồng lớn, trong đó khoảng 30 - 40% được các công ty hợp đồng bao tiêu sản phẩm.
Đến tháng 9, tổng hợp 59/63 tỉnh, thành phố báo cáo đã có 512 xã hoàn thành 19 tiêu chí nông thôn mới, chiếm 5,8%; đạt bình quân 9,64 tiêu chí/xã. Dự kiến đến cuối năm khoảng 790 xã hoàn thành, chiếm 8,8%; đạt bình quân 10 tiêu chí/xã.
[14] Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 9 tháng tăng 6,7%; trong đó công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,3%, sản xuất và phân phối điện tăng 11,2%, cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6%, khai khoáng tăng 0,4%. Chỉ số IIP của một số sản phẩm chủ yếu tăng mạnh như: Sản phẩm điện tử, máy tính, quang học tăng 35,9%, dệt tăng 18,8%, giấy và sản phẩm giấy tăng 12,1%, kim loại tăng 9,3%...
Vận tải hàng hóa 9 tháng ước tăng 5,2%; luân chuyển hàng hóa tăng 1,2%; vận chuyển hành khách tăng 7,1%, trong đó qua đường hàng không tăng 8,5%. Doanh số thương mại điện tử bán lẻ tăng 35%. Doanh thu du lịch tăng 17,4%.
Tổng doanh thu công nghiệp công nghệ thông tin đạt khoảng 27 tỷ USD, tăng khoảng 17%. Số thuê bao điện thoại đạt khoảng 130 triệu, mật độ thuê bao đạt 148 máy/100 dân. Tỷ lệ phủ sóng di động đạt 94% dân số. Số lượng điểm phục vụ bưu chính công cộng đạt trên 13 nghìn điểm.
[15] Theo Ngân hàng Phát triển châu Á, tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo và khu vực dịch vụ trong GDP năm 2013 của Việt Nam là 17,5% và 43,3%; Thái Lan là 29,1% và 50,7%; Malaysia là 23,9% và 50,1%; Indonesia là 23,7% và 39,9%; Phillipines là 20,4% và 57,6%; Trung Quốc là 37,0% và 46,1%.
[16] Đến tháng 12/2013, còn nợ 18 văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành của 11 luật đã có hiệu lực; đến nay còn nợ 06 văn bản của Chính phủ quy định chi tiết thi hành của 10 luật đã có hiệu lực, giảm 66,6%. Đến tháng 12/2013, các Bộ, cơ quan ngang Bộ còn nợ 44 thông tư, thông tư liên tịch; đến nay chỉ còn nợ 16 thông tư, thông tư liên tịch, giảm 64%.
[17] Đã ban hành 07 Nghị định và hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Tạm dừng thành lập mới Tổng cục và tương đương, kiểm soát chặt chẽ việc lập các tổ chức mới và tăng biên chế. Hoàn thiện thể chế về tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Tổng kết thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Rà soát, hoàn thiện cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và xây dựng Đề án về Hội quần chúng.
[18] Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 49%. Nhiều học sinh Việt Nam đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế và khu vực (năm 2014 có 42/42 lượt học sinh tham dự Olympics quốc tế và khu vực đoạt giải, trong đó có 12 huy chương vàng, 21 huy chương bạc, 8 huy chương đồng và 1 bằng khen).
[19] Về giao thông: Các công trình đã hoàn thành, đưa vào sử dụng là: Các tuyến cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, Cầu Giẽ - Ninh Bình, Vành đai 3 Hà Nội đoạn Thanh Trì - Mai Dịch, Quốc lộ 51 (mở rộng), Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, Hà Nội - Thái Nguyên… (đến nay đã có khoảng 524 km đường cao tốc); các cầu: Rồng, Trần Thị Lý (Đà Nẵng), Rào II, Khuể (Hải Phòng), Bến Thủy II (Nghệ An), Cảng Cái Mép - Thị Vải; Sân bay: Đà Nẵng, Phú Quốc. Các công trình đang triển khai là: Các tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Bến Lức - Long Thành, Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Thái Nguyên - Bắc Kạn (Chợ Mới), Cầu Nhật Tân (Hà Nội), Cảng Lạch Huyện, Nhà ga T2 Nội Bài, Hòa Lạc - Hòa Bình, tuyến nối Hải Phòng - Hạ Long, tuyến Tân Vũ - Lạch Huyện…
Về thủy điện: các công trình Sơn La, Bản Chát, Đồng Nai 4, An Khê Kanak, Bắc Hà, Đắk Rinh, Hủa Na… Về nhiệt điện: Hải Phòng 2, Nghi Sơn 1, Vĩnh Tân 2, Mạo Khê... Về lưới điện: Có 559 công trình lưới điện 110 - 500 KV đã hoàn thành đóng điện giai đoạn 2011 đến tháng 9/2014 (trong đó có 33 công trình 500 KV, 113 công trình 220 KV, 413 công trình 110 KV) với tổng dung lượng trạm biến áp là 37.749 MVA, tổng chiều dài đường dây cải tạo và làm mới trên 7.942km. Tính riêng năm 2014, đã khởi công 28 công trình lưới điện 220 - 500 KV, trong đó có 4 công trình lưới điện 500KV. Đã hoàn thành việc xây dựng đưa vào sử dụng đường cáp ngầm cấp điện cho các huyện đảo Cô Tô (Quảng Ninh), Phú Quốc (Kiên Giang), Lý Sơn (Quảng Ngãi).
Về dầu khí: Đầu tư và đưa vào vận hành 127 công trình; riêng năm 2014 đưa 9 mỏ, công trình mới vào khai thác.
Về thủy lợi: Đến năm 2013 có trên 900 hệ thống thủy lợi lớn và vừa, đã tưới trên 7 triệu ha diện tích gieo trồng lúa, tăng 80 nghìn ha so với năm 2010, nước phục vụ sinh hoạt và công nghiệp tăng 0,35 tỷ m3 so với năm 2010.
Về hạ tầng đô thị: Các cầu vượt; đường sắt đô thị Hà Nội - Hà Đông, Nhổn - Ga Hà Nội, Bến Thành - Suối Tiên; xe buýt nhanh Kim Mã - Khuất Duy Tiến, các công trình cấp thoát nước…
Về viễn thông: Có 4.104 điểm kết nối, trong đó 2.967 điểm đã được sử dụng (chiếm tỷ lệ 72,3%).
[20] Tính đến hết tháng 9/2014, tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội là 11,4 triệu người, trong đó có 188 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
[21] Tổng dư nợ tín dụng cho học sinh sinh viên nghèo là khoảng 30 nghìn tỷ đồng với 1,8 triệu học sinh sinh viên đang vay vốn. Đến nay, đã có trên 3 triệu lượt học sinh sinh viên được vay vốn với tổng doanh số trên 50 nghìn tỷ đồng.
Đã xuất cấp trên 83 nghìn tấn gạo, trị giá khoảng 770 tỷ đồng; trong đó 23 nghìn tấn gạo cứu trợ trong dịp tết nguyên đán và cứu đói giáp hạt; trên 48 nghìn tấn gạo hỗ trợ học sinh vùng khó khăn.
[22] Trong 6 tháng đầu năm đã xử phạt trên 15 nghìn cơ sở vi phạm quy định về an toàn thực phẩm, phạt tiền 11,5 tỷ đồng.
[23] Quyết định số 34/2014/QĐ-TTg về Quy định tiêu chuẩn xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em; Quyết định số 1299/2014/QĐ-TTg về đề án liên thông các thủ tục hành chính đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm cho trẻ em dưới 6 tuổi; Quyết định số 570/QĐ-TTg ngày 22/4/2014 về Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS giai đoạn 2014 - 2020.
Khoảng 50% người cao tuổi được hưởng trợ cấp ưu đãi có công, trợ cấp xã hội và lương hưu.
[24] Tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng ở mức 0,25%.
[25] Tỷ lệ thu nhập bình quân giữa 20% dân số giàu nhất so với 20% dân số nghèo nhất là 9,23 lần năm 2010 và 9,35 lần năm 2012.
[26] Đã có 49 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai với khoảng 90 quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính. Đã cấp 40,8 triệu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đạt 93,8% diện tích các loại đất cần cấp giấy chứng nhận. Hoàn thành việc ban hành 11/11 quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông.
[27] Tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải nguy hại đạt trên 65%; chất thải rắn y tế đạt trên 75%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 86%; tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,5%.
[28] Đã thụ lý 415 vụ án, 1.031 bị can phạm tội về tham nhũng, trong đó kỳ trước chuyển sang 156 vụ, 424 bị can; khởi tố mới 256 vụ, 593 bị can.
Đã triển khai 6.877 cuộc thanh tra hành chính, 150.932 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, phát hiện vi phạm 31,5 nghìn tỷ đồng, 3.740 ha đất; kiến nghị thu hồi 30 nghìn tỷ đồng và 2.690 ha đất; kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với 1.552 tập thể, 2.735 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 40 vụ, 47 đối tượng.
[29] Tính đến 15/8/2014, đã giải quyết 494/528 vụ việc, đạt tỷ lệ 93,6%; đang tiếp tục kiểm tra, rà soát 537 vụ theo kế hoạch thanh tra. Đã có 36/63 tỉnh thành có khiếu nại tố cáo giảm; số vụ việc giải quyết theo thẩm quyền đạt tỷ lệ cao; số công dân đến khiếu nại tố cáo giảm 1,8%, số đơn thư giảm 3,9%; số vụ việc giải quyết thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính giảm 9,54%.
[30] Trong 9 tháng năm 2014 đã điều tra, khám phá 33,8 nghìn vụ phạm pháp hình sự, 67,3 nghìn đối tượng; triệt phá 2.142 băng nhóm tội phạm; ngăn chặn gần 1.500 trang web cá độ bóng đá, đánh bạc qua mạng internet, khởi tố 29 vụ, 153 bị can. Tai nạn giao thông giảm so với cùng kỳ trên cả 3 tiêu chí: Số vụ giảm 14,47%; số người chết giảm 4,01%; số người bị thương giảm 18,11%.
[31] Đã tổ chức 10 đoàn lãnh đạo cấp cao, 30 đoàn cấp Phó Thủ tướng và tương đương thăm, làm việc tại nước ngoài; tiếp 28 đoàn lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế đến Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước, đối tác toàn diện với 11 nước. Triển khai thực hiện 8 hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang đàm phán 6 FTA với Liên minh Châu Âu, Liên minh thuế quan Nga - Belarus - Kazakhstan, Hàn Quốc, Khối thương mại mậu dịch tự do (EFTA), Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP). Vận động thêm 10 nước công nhận quy chế thị trường cho Việt Nam, nâng tổng số lên 50 nước; ký kết 99 thỏa thuận song phương, tham gia 25 điều ước/thỏa thuận đa phương. Kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ bà con ta ở Ukraina tránh vùng xung đột, ổn định cuộc sống; sơ tán 1.762 trên tổng số 1.767 người Việt Nam tại Lybia về nước an toàn (5 người ở lại, trong đó 2 người tiếp tục lao động, 3 người bỏ khỏi nơi làm việc từ tháng 7/2014); giải quyết 50 vụ liên quan đến 75 tầu và 690 ngư dân ta bị nước ngoài bắt giữ.
Lượng kiều hối tăng liên tục qua các năm, trong đó năm 2014 ước đạt 12 tỷ USD, năm 2013 đạt 11 tỷ USD (đứng thứ 9 trên thế giới), năm 2012 đạt hơn 10 tỷ USD, năm 2011 đạt 9 tỷ USD và năm 2010 đạt gần 8 tỷ USD.
Cộng đồng quốc tế đã đồng tình ủng hộ Việt Nam trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo, nhất là các tuyên bố tại Hội nghị cấp cao ASEAN, Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 10, Tuyên bố của Liên minh châu Âu (EU), Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á, Hội nghị Tương lai châu Á, Diễn đàn Hợp tác An ninh khu vực Shangri-La, Hội nghị Thượng đỉnh G7, các Hội nghị về biển Đông và khu vực…; Chính phủ, Quốc hội, Nghị sỹ, Hội hữu nghị, học giả tại các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Đức, Úc, New Zealand, Singapore, Philippines, Indonesia, Venezuela, Mexico…
[32] Các chỉ tiêu dự kiến đạt và vượt Kế hoạch năm 2014 là: Tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ nhập siêu, tốc độ tăng giá tiêu dùng, giảm tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi ở khu vực thành thị, tạo việc làm, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, số giường bệnh/1 vạn dân, tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được xử lý, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường, tỷ lệ che phủ rừng. Một chỉ tiêu không đạt là tỷ lệ lao động qua đào tạo (đạt 49% so với kế hoạch 52%).
[33] Dự kiến dư nợ công năm 2015 là 64%, năm 2016 là 64,9%, năm 2017 là 64%, đến năm 2020 giảm còn 60,2% GDP. Dư nợ Chính phủ năm 2015 là 48,9%, năm 2016 là 49,5%, năm 2017 là 49%, đến năm 2020 giảm còn 46,6% GDP. Dư nợ nước ngoài của quốc gia năm 2015 là 42,6%, năm 2016 là 46,9%, năm 2017 là 46,8%, đến năm 2020 giảm còn 46% GDP.
[34] Đến hết năm 2015, sẽ hoàn thành việc cổ phần hóa 432 doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo Đề án đã được phê duyệt.
[35] Dự kiến thông qua 28 luật và 2 pháp lệnh, trong đó có Luật Tổ chức chính phủ sửa đổi, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi, Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi, Bộ luật Dân sự sửa đổi, Bộ luật Hình sự sửa đổi, Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi, Luật Tố tụng hành chính sửa đổi, Luật Hoạt động giám sát của HĐND, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Biểu tình, Luật Thống kê sửa đổi...