Cần có biện pháp giảm nhập siêu từ Trung Quốc

Theo Báo Đầu tư.

Nhập siêu từ Trung Quốc tăng chóng mặt từ 188 triệu USD năm 2001 lên gần 13,5 tỷ USD năm 2011 đang là vấn đề lớn, rất đáng quan ngại đối với nền kinh tế.

Cần có biện pháp giảm nhập siêu từ Trung Quốc
Dù được cảnh báo, nhưng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm tỷ lệ cao trong tổng nhập siêu cả nước, từ 61% năm 2005 lên 136% năm 2011. Riêng 8 tháng đầu năm nhập siêu từ thị trường này là, 10,2 tỷ USD, gấp cả trăm lần nhập siêu của cả nước.

Cách nghĩ của doanh nghiệp Việt Nam là cần có nguyên liệu rẻ để xuất khẩu, ngại sản xuất nguyên liệu và sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, đã lún sâu vào “công nghệ máy may và tuốc-nơ-vít” trước sự kiên nhẫn của thương nhân Trung Quốc xuất khẩu nhỏ lẻ từ cái tăm (hai năm 2009 - 2010 xuất vào cảng Cát Lái đến 300 tấn tăm, bên nhập khẩu đóng được 7 triệu hộp), để thương nhân Việt Nam quen nhập.

Tại sao nhập siêu?

Trước hết, quan hệ thương mại giữa hai nước ngày càng được cải thiện tích cực. Hai nước gần nhau về địa lý, Việt Nam có 6 tỉnh biên giới đất liền, trên biển tiếp giáp với các tỉnh miền Nam Trung Quốc... phát triển năng động. Hai nước có những thỏa thuận phát triển kinh tế biên mậu, hình thành các cặp cửa khẩu quốc tế, quốc gia, các lối mở, cặp chợ biên giới..., làm cho hàng hóa qua lại thuận lợi, cạnh tranh về giá cước và các điều kiện ngoại thương...

Bên cạnh đó, số doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu tại Việt Nam cũng rất lớn. Tính đến tháng 4/1012, Trung Quốc trúng thầu 13 dự án nhiệt điện (tổng thầu EPC), chiếm tới 30% công suất toàn ngành điện; 49/62 dây chuyền dự án xi măng; 5/6 dự án phân đạm; dự án bauxit và nhiều dự án nhỏ và vừa khác. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng kim ngạch nhập khẩu.

Trung Quốc khá thành công trong chính sách biên mậu, với quan điểm ngoại thương “tam khứ nhất bổ”, chủ trương “hỗ thị dân biên” để “thắp sáng đường biên”, tạo hạ tầng khu vực cửa khẩu, cùng với những chính sách hỗ trợ thương nhân qua lại, như giảm chi phí kho bãi, lệ phí, áp thuế xuất khẩu theo đúng cam kết WTO, với nhiều mặt hàng có thuế suất bằng 0%; khách du lịch qua lại được mang theo hàng hóa với số lượng lớn hơn quy định của Việt Nam. Do vậy, cộng với kim ngạch xuất nhập khẩu tiểu ngạch, thì tổng kim ngạch hai chiều Việt - Trung, trên thực tế, luôn cao hơn con số thống kê của hải quan.

Trong thương mại và đầu tư, Trung Quốc có nhiều thủ pháp xúc tiến giành lợi thế xuất khẩu như khuyến mại, ứng hàng cho thương nhân nhập khẩu, thanh toán bù trừ, để khuyến khích thương nhân Việt Nam nhập khẩu. Tại một số diễn đàn hợp tác thương mại biên mậu, các chuyên gia Trung Quốc từng khuyến khích sử dụng nhân dân tệ để buôn bán. Việc sử dụng nhân dân tệ với các dịch vụ đổi tiền tự phát ở biên giới đã kích thích nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc.

Để giảm nhập siêu - mua bán phải ngang nhau

Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam chủ động kích thích sản xuất trong nước như đặt hàng, đấu thầu trong nước trước khi nhập khẩu; kiên trì thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ cho nhau như vải cho dệt may, sắt thép xây dựng và tham gia đấu thầu cung ứng máy móc thiết bị cho các công trình. Kinh nghiệm của Hãng Hyundai (Hàn Quốc) là chỉ nhập một vài dây chuyền của Nhật Bản, châu Âu, Mỹ, sau đó phát triển nội địa hóa nhiều dây chuyền sản xuất ô tô, đóng tàu, phát triển công nghiệp hỗ trợ để giảm nhập khẩu, tăng năng lực sản xuất trong nước hướng xuất khẩu.

Thứ hai, trong cơ chế thị trường, buôn bán phải có lời, nhưng nhập khẩu hàng tiêu dùng, vật tư trong nước sản xuất được là chúng ta đánh mất việc làm, mất năng lực nội địa hóa, nội sinh công nghệ. Thực hiện Chương trình “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”, không chỉ người tiêu dùng mà các doanh nghiệp Việt Nam hãy sản xuất thay thế các mặt hàng tiêu dùng thông thường đang nhập khẩu.

Thứ ba, việc lập hàng rào kỹ thuật là cần thiết. Trước hết lên “danh sách đen” những mặt hàng cấm nhập, buộc phải tiêu hủy và tái xuất, không để tình trạng đến thời điểm này, kể cả các trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng của Bộ Khoa học và Công nghệ cũng chưa đủ khả năng phân tích được hàm lượng Bo trong thành phần thép Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam!

Thứ tư, kiểm tra, kiểm soát chống gian lận thương mại, nhãn hiệu hàng hóa, xuất xứ hàng hóa..., cập nhật thường xuyên thông tin hàng hóa qua các cửa khẩu thông báo trên toàn hệ thống hải quan, quản lý thị trường, để thu giữ tiêu hủy hàng hóa không có xuất xứ, xử lý nghiêm hàng hóa gian lận thương mại ngay từ cửa khẩu.

Thứ năm, cơ quan quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu hai nước cần có những cuộc họp tìm các giải pháp thúc đẩy thương mại hai chiều để cải thiện cán cân ngoại thương, thông báo các nhu cầu xuất nhập khẩu, phối hợp đấu tranh chống gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng..., tạo điều kiện để thương nhân, nhà đầu tư hai nước làm ăn theo hợp đồng dài hạn.

Thứ sáu, cần đề xuất chế tài bắt buộc sử dụng vật tư hàng hóa trong nước sản xuất được theo Thông tư 04/2009/TT-BKH ngày 23/7/2009 và Quyết định 2840/QĐ-BCT ngày 28/5/2010 của Bộ Công thương về việc ban hành danh mục máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu trong nước sản xuất được.

Sau cùng, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm kiếm thị trường Trung Quốc để xuất khẩu nông sản có thế mạnh như gạo, cà phê, cao su, sắn, thủy sản, đường ăn, hoa trái nhiệt đới..., khoáng sản đã chế biến, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, cải thiện cán cân thương mại bằng xuất khẩu vẫn bền vững; cần đa dạng thị trường, mặt hàng để tránh lệ thuộc vào thương nhân Trung Quốc như câu chuyện xuất khoai lang vừa qua. Các hiệp hội ngành hàng ở hai nước có những thỏa thuận hướng dẫn doanh nghiệp hợp tác thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại, bởi thị trường Trung Quốc có sức tiêu thụ lớn các sản phẩm từ Việt Nam; áp dụng nguyên tắc cân đối ngoại thương là “đã mua thì phải bán ngang nhau”, chuyển dần về tỷ lệ mua 1 bán 1.