Quy trình giám sát ngân sách nhà nước
Giám sát ngân sách nhà nước (NSNN) góp phần quan trọng vào việc đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng NSNN. Kết quả giám sát NSNN chỉ ra mức độ chấp hành, tuân thủ những luật lệ, quy chế, chính sách quản lý tài chính của Nhà nước. Do đó, giám sát NSNN là việc theo dõi, kiểm tra thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm xác định tình trạng NSNN, từ đó phát hiện sớm các vấn đề và có hướng xử lý kịp thời.
Hiện nay, việc giám sát NSNN tại Quốc hội được thực hiện theo quy trình lập và thẩm tra các báo cáo về dự toán NSNN, quyết toán NSNN. Cụ thể được xác định như sau: (i) Tại kỳ họp cuối năm (thường là kỳ chẵn và khai mạc vào khoảng 20/10 hàng năm): Quốc hội sẽ xem xét, quyết định dự toán NSNN và phân bổ ngân sách trung ương (NSTW) năm sau (còn gọi là năm kế hoạch/năm dự toán) trước ngày 15/11; (ii) Tại kỳ họp giữa năm (thường là kỳ lẻ và khai mạc vào khoảng 19/5): Quốc hội sẽ xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN (sau khi năm ngân sách đã kết thúc 18 tháng).
Các tài liệu chuẩn bị cho kỳ họp Quốc hội (bao gồm: Tờ trình của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, Báo cáo giám sát và Báo cáo thuyết minh có liên quan) phải được gửi đến đại biểu quốc hội trước 10 ngày kể từ ngày dự kiến khai mạc kỳ họp Quốc hội.
Báo cáo về dự toán NSNN, phân bổ NSTW
Theo Nghị quyết 387/2003/UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI, các báo cáo về dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW trước khi trình Quốc hội phải được Uỷ ban Tài chính - Ngân sách chủ trì phối hợp với Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội xem xét, thẩm tra; được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Thông qua quy trình làm việc chặt chẽ từ phía các cơ quan của Quốc hội (như họp Thường trực Ủy ban, họp Thường trực Ủy ban mở rộng, họp toàn thể Ủy ban) thì các cơ quan của Chính phủ (trực tiếp là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) sẽ tiếp thu, hoàn chỉnh các báo cáo về dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW. Từ đó, trình Quốc hội các báo cáo có chất lượng, rõ ràng, hợp lý, bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Theo đó, các công việc chính có thể tóm tắt qua các giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Nghị quyết 387/2003/UBTVQH11 quy định: Trước ngày 1/10, dự toán NSNN được gửi đến các cơ quan của Quốc hội (trực tiếp là Ủy ban Tài chính - Ngân sách) để thẩm tra. Tài liệu mà Chính phủ gửi các cơ quan của Quốc hội bao gồm: báo cáo tình hình thực hiện NSNN năm hiện hành, dự toán NSNN năm sau; báo cáo tình hình thực hiện NSTW năm hiện hành và phương án phân bổ NSTW năm sau. Chậm nhất ngày 5/10, Ủy ban Tài chính - Ngân sách họp toàn thể để thẩm tra báo cáo dự toán NSNN, phân bổ NSTW. Chậm nhất ngày 12/10, Chính phủ và Ủy ban Tài chính - Ngân sách trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến.
Giai đoạn 2: Sau khi có ý kiến các cơ quan của Quốc hội thì Chính phủ (trực tiếp là Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư) xem xét, tiếp thu và chuẩn bị giải trình, kể cả việc phải tiếp tục xử lý những vướng mắc trong dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW, làm việc lại với một số bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; sau đó, hoàn chỉnh lại dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW để Chính phủ xem xét, trình Quốc hội quyết định.
Giai đoạn 3: Tài liệu về dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW (do Chính phủ chuẩn bị) và Báo cáo thẩm tra (do Ủy ban Tài chính - Ngân sách chuẩn bị) phải gửi đến các Đại biểu Quốc hội ít nhất 10 ngày trước khi kỳ họp Quốc hội bắt đầu, để các Đại biểu Quốc hội có thời gian nghiên cứu, xem xét.
Giai đoạn 4: Quốc hội thảo luận tại Tổ, tại Hội trường và biểu quyết thông qua các nội dung: Nghị quyết về dự toán NSNN năm sau; Nghị quyết phân bổ NSTW năm sau. Cả 2 Nghị quyết này được thông qua trước ngày 15/11 năm hiện hành. Trong trường hợp dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW chưa được Quốc hội quyết định, Chính phủ lập lại dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định (Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội). Quy trình và thủ tục xem xét việc điều chỉnh dự toán NSNN thực hiện như quy trình lập dự toán NSNN.
Báo cáo về quyết toán NSNN
Đây là báo cáo phục vụ kỳ họp giữa năm của Quốc hội. Trong tháng 5, Quốc hội sẽ phê chuẩn quyết toán NSNN của năm ngân sách sau 18 tháng. Do vậy công tác chuẩn bị tuân thủ các bước sau:
Một là, Báo cáo quyết toán NSNN do Chính phủ lập được gửi đến Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội (cơ quan chủ trì thẩm tra) chậm nhất là 14 tháng, sau khi năm ngân sách kết thúc.
Hai là, Báo cáo kết quả kiểm toán quyết toán NSNN do Kiểm toán Nhà nước thực hiện phải gửi đến Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội chậm nhất là 16 tháng sau khi năm ngân sách kết thúc, đồng thời gửi Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Ba là, Chậm nhất ngày 5/3 hàng năm: Ủy ban Tài chính - Ngân sách chủ trì thẩm tra báo cáo quyết toán NSNN (Điều 11 của Nghị quyết 387/2003/ UBTVQH11). Chậm nhất ngày 15/3: Ủy ban Tài chính - Ngân sách trình Ủy ban thường vụ Quốc hội báo cáo thẩm tra của Ủy ban; Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội báo cáo quyết toán NSNN. Chậm nhất ngày 20/3: Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về quyết toán NSNN.
Bốn là, Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách phải gửi đến đại biểu Quốc hội chậm nhất 10 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. Quốc hội thảo luận, biểu quyết thông qua: Nghị quyết phê chuẩn quyết toán NSNN (năm ngân sách sau 18 tháng).
Cơ chế phối hợp giám sát NSNN hiện nay
Nhìn chung, các báo cáo về dự toán và quyết toán NSNN đã chấp hành đúng các quy định của Luật NSNN và quy định tại Nghị quyết 387/2003/ UBTVQH 11. Các báo cáo về tình hình thực hiện NSNN năm hiện hành, dự toán NSNN và phương án phân bổ NSTW năm sau; báo cáo thẩm tra đều được gửi đến đại biểu quốc hội trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội. Tuy nhiên, do quy trình xin ý kiến, họp Chính phủ và yêu cầu phải chuẩn bị kỹ lưỡng các nội dung trình Quốc hội, nên Tờ trình của Chính phủ thường gửi chậm so với quy định; báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách phải tiếp cận sau khi Chính phủ hoàn chỉnh Tờ trình nên bị động, nhất là khi phải chỉnh sửa lại số liệu cho khớp giữa các tài liệu gửi đến đại biểu Quốc hội.
Về nội dung chuyên môn: có những khó khăn do Tờ trình của Chính phủ thường gửi chậm, nhưng kết quả cụ thể của công tác thẩm tra dự toán NSNN là các kiến nghị của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách về cơ bản được tiếp thu và chỉnh sửa ngay trong quá trình lập, thẩm tra dự toán NSNN, điều chỉnh các khoản thu, cơ cấu lại các khoản chi cho hợp lý. Một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau, Ủy ban Tài chính - Ngân sách trình phương án để Quốc hội xem xét và điều chỉnh dự toán NSNN.
Cơ chế phối hợp trong giám sát NSNN đã có những tiến bộ rõ rệt, vừa bảo đảm tính độc lập theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan nhưng cũng vừa có sự đan xen, gắn kết chặt chẽ ở một số công đoạn, quy trình chuẩn bị cho kỳ họp Quốc hội. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW cũng như trong công tác lập, thẩm tra, cho ý kiến các vấn đề về NSNN, do có sự tham gia, phối hợp ngay từ đầu của cơ quan dân cử.
Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp cũng khắc phục sự lúng túng, thiếu ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan khi chuẩn bị tài liệu phục vụ kỳ họp Quốc hội. Cơ chế này đã giúp cho Uỷ ban Tài chính - Ngân sách chuẩn bị nhiều báo cáo thẩm tra, báo cáo ý kiến và tiến hành giám sát việc phân bổ số tăng thu NSTW, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến (vào trước 28/2 hàng năm); Giám sát việc sử dụng dự phòng NSTW; Giám sát việc ban hành các định mức phân bổ ngân sách trong mỗi thời kỳ ổn định ngân sách; Giám sát các tiêu chuẩn, chế độ, định mức chi tiêu ngân sách; Giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính – NSNN…
Qua công tác phối hợp chặt chẽ, đã trình Quốc hội xem xét điều chỉnh dự toán NSNN hàng năm nhằm phân bổ ngân sách ưu tiên cho một số lĩnh vực trọng yếu và địa bàn có nhiều khó khăn; chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương tài chính; tăng cường quản lý và kiến nghị xử lý các vi phạm pháp luật về tài chính - ngân sách.
Một số kiến nghị, đề xuất
Thứ nhất, về cơ chế phối hợp với các cơ quan của Chính phủ: Cần cụ thể hóa và làm rõ hơn cơ chế phối hợp tham gia với các cơ quan của Chính phủ trong quá trình lập dự toán NSNN (vòng 1, vòng 2, vòng 3), xây dựng phương án phân bổ NSTW, số bổ sung cho ngân sách địa phương; lập báo cáo quyết toán NSNN, nhất là vấn đề phân bổ số vượt thu NSTW, sử dụng dự phòng ngân sách hàng năm và điều chỉnh dự phòng ngân sách trong trường hợp cần thiết; cung cấp cho nhau những thông tin, tài liệu một cách thiết thực; cử cán bộ tham gia công tác chuẩn bị tài liệu và tổ chức các cuộc họp trao đổi thống nhất các tài liệu trình Quốc hội.
Thứ hai, về chuẩn bị nội dung các báo cáo: Cần xem xét sửa đổi Luật NSNN năm 2002 và Nghị quyết 387/2003/UBTVQH11 để cụ thể hóa các tài liệu trình Quốc hội đã được quy định tại điều 42 của Luật NSNN. Cụ thể là: cần có báo cáo về tình hình thực hiện dự toán NSNN và phân bổ NSTW 3 năm về trước (liền kề) để làm căn cứ thêm cho Quốc hội xem xét, quyết định. Riêng đối với các công trình xây dựng cơ bản nhóm A, B thì phải báo cáo cụ thể về thời gian khởi công, thời gian hoàn thành, tổng mức đầu tư, tiến độ bố trí vốn, dự kiến bố trí vốn đầu tư trong những năm tới, những công trình đầu tư quá thời gian, chưa đủ thủ tục theo quy định của pháp luật… Khi trình Quốc hội về dự toán thu - chi NSNN cần kèm theo kế hoạch tài chính trung và dài hạn; các khoản vay và trả nợ cần kèm theo chiến lược vay và trả nợ nước ngoài của quốc gia… Các cơ quan của Chính phủ phải cung cấp kịp thời các tài liệu bổ sung để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán NSNN, phân bổ NSTW và phê chuẩn quyết toán NSNN.
Mối quan hệ giữa các cơ quan của Chính phủ với cơ quan thẩm tra đã được xác lập tương đối rõ trong việc thẩm tra các báo cáo về NSNN. Tuy nhiên, sự phối hợp trong thực tế đạt kết quả chưa cao. Việc quy định cụ thể đối tượng thẩm tra, nội dung thẩm tra trong Nghị quyết 387/2003/UBTVQH11 mang tính cứng nhắc, gò bó và hạn chế tính chủ động của cơ quan thẩm tra. Đối tượng thẩm tra là các nội dung trong báo cáo của Chính phủ về dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW, quyết toán NSNN, nhưng các báo cáo này thường gửi đến các cơ quan của Quốc hội rất chậm. Do đó, cần sớm khắc phục tình trạng này.
Thứ ba, về các bước trong quy trình phối hợp: Hiện nay, các mốc thời gian và thời hạn để chuẩn bị tài liệu phục vụ Quốc hội còn quá hạn hẹp. Thời gian giành cho hoạt động thẩm tra, thảo luận ngân sách và quyết định chương trình, dự án quan trọng quốc gia trong lịch biểu tài chính còn quá ngắn. Các cơ quan Quốc hội phải chịu sức ép về thời gian rất lớn để hoàn thành báo cáo thẩm tra trình ra Quốc hội (thời gian khoảng 1 tuần). Nên chăng thực hiện như sau: Tài liệu gửi Uỷ ban Tài chính - Ngân sách để thẩm tra về dự toán và phân bổ phải gửi chậm nhất trước ngày 1/9 hàng năm. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tổ chức phiên họp toàn thể chậm nhất trước ngày 10/10 hàng năm. Theo đó, lịch biểu tài chính cần quy định sớm hơn và các cơ quan của Chính phủ phải làm việc khẩn trương hơn để các cơ quan của Quốc hội có thêm thời gian thảo luận. Ở nhiều quốc gia, thời gian để Quốc hội và các Uỷ ban thẩm tra, thảo luận ngân sách từ 2- 3 tháng, có một số nước trên 4 tháng.
Bên cạnh đó, sự chia sẻ thông tin, phân tích số liệu bị hạn chế, nhất là giữa các cân đối vĩ mô với chỉ tiêu chuyên ngành, sự gắn kết giữa chính sách ngân sách trong từng ngành, lĩnh vực cũng chưa được phối hợp đánh giá một cách chặt chẽ. Nội dung trình các chương trình, dự án quan trọng quốc gia tại Quốc hội rất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó cần sự phối hợp giữa các Uỷ ban của Quốc hội để có một báo cáo thẩm tra toàn diện, có chất lượng.
Hiện tại, quy trình phục vụ, chuẩn bị các báo cáo vể NSNN tại kỳ họp Quốc hội còn khá phức tạp, qua nhiều khâu trong khi thời gian thảo luận tại tổ và tại hội trường, thời gian thông qua Nghị quyết dự toán NSNN và Nghị quyết phân bổ NSTW có khoảng cách khá ngắn (chỉ từ 1-2 ngày). Nên chăng cần có sự cải tiến quy trình cho hợp lý hơn. Các phụ lục đính kèm báo cáo hiện nay vẫn chưa hợp lý, nội dung của một số phụ lục vẫn chưa đủ thông tin để xem xét, quyết định về ngân sách; cần bổ sung thêm một số phụ lục chi tiết. Một số chỉ tiêu trong phụ lục chưa được sắp xếp hợp lý và khoa học, chưa đủ lượng thông tin phục vụ Quốc hội, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, cần được nghiên cứu khắc phục.
Cơ chế phối hợp giám sát ngân sách của các cơ quan quản lý nhà nước
(Tài chính) Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, giám sát là một hình thức hoạt động nhằm bảo đảm pháp chế và sự tuân thủ những quy tắc chung trong xã hội. Các hoạt động kinh tế, tài chính và ngân sách giữ vai trò thiết yếu trong đời sống xã hội, vì thế việc giám sát các hoạt động này là một trong những chức năng quan trọng của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Xem thêm