Đề xuất ngành công nghiệp hỗ trợ hưởng thuế suất 10% trong 15 năm
(Tài chính) Tiếp tục chương trình làm việc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, sáng 3/11, Quốc hội làm việc tại Hội trường, nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế.
Theo Tờ trình, trước bối cảnh nền kinh tế nước ta đang phải đối mặt với một loạt các khó khăn như: tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân còn nhiều khó khăn; tổng cầu tăng chậm; tăng trưởng tín dụng thấp, các thị trường phục hồi và phát triển chậm; lượng hàng hóa tồn kho ở nhiều lĩnh vực còn lớn. Trong khi đó, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế - xã hội nước ta. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải giải thể hoặc ngừng hoạt động trong 9 tháng là 48.330 nghìn doanh nghiệp, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2013, bao gồm: 7.027 doanh nghiệp giải thể; 8.440 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn; 32.863 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký.
Đồng thời nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, cần có chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết quốc tế hỗ trợ tích cực hơn đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam phát huy được các lợi thế, tận dụng được các cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế đảm bảo tính nhất quán của chính sách; phù hợp với xu hướng phát triển thì cần thiết phải thực hiện sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật về thuế hiện hành.
Do đó, Chính phủ trình Quốc hội ban hành dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật về thuế như sau: Về sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN); Về sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN); Về sửa đổi, bổ sung Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT); Về sửa đổi, bổ sung Luật Thuế tài nguyên; Về sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế.Tờ trình do Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trình bày cũng nêu rõ, theo tính toán, việc thực hiện các nội dung sửa đổi về thuế nêu trên, đối với ngân sách nhà nước, ước tính tác động đến thu ngân sách như sau:
Về thuế TNDN: qua tính toán cho thấy dự kiến giảm thu ngân sách khoảng 2.700 tỷ đồng, trong đó số giảm: do bổ sung quy định nguyên tắc áp dụng ưu đãi thuế TNDN khoảng 1.800 tỷ đồng; do bổ sung chính sách ưu đãi đối với CNHT khoảng 400 tỷ đồng; do không thu thuế trùng đối với phần thu nhập của doanh nghiệp chuyển về Việt Nam của các dự án do doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài trước mắt giảm khoảng 20-30 tỷ đồng; do bổ sung quy định áp dụng thuế suất 20% đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp khoảng 300 tỷ đồng; do bỏ quy định khống chế chi phí được trừ đối với chi quảng cáo, khuyến mại ... khoảng 160 tỷ đồng.
Về thuế TNCN: theo tính toán dự kiến làm giảm thu ngân sách khoảng 270 tỷ đồng, trong đó khoảng 20 tỷ đồng là hỗ trợ cho cá nhân là lao động Việt Nam làm thuyền viên làm thuê cho các hãng tàu nước ngoài hoặc hãng tàu Việt Nam vận tải quốc tế; 50 tỷ đồng do miễn thuế TNCN đối với thu nhập của chủ tàu từ hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ phục vụ hoạt động khai thác thủy sản xa bờ và khoảng 200 tỷ đồng do bỏ quy định thu thuế TNCN đối với cá nhân trúng thưởng trong casino, tuy nhiên cùng với điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt, năm 2015 sẽ tăng thu khoảng 571 tỷ đồng.
Về thuế GTGT: theo tính toán dự kiến hàng năm sử dụng khoảng 175 tỷ đồng/năm từ việc hoàn thuế GTGT của tàu dùng để khai thác thủy sản xa bờ, khoảng 800 tỷ đồng/năm để hoàn thuế cho hàng hoá mua vào hoặc nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường và khoảng 300 tỷ đồng hoàn thuế do bổ sung thức ăn chăn nuôi vào đối tượng không chịu thuế GTGT và giảm thu ngân sách khoảng 900 - 1.000 tỷ đồng/năm do thực hiện không thu thuế GTGT đối với mặt hàng thức ăn chăn nuôi, phân bón.
Về không thu thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp: việc sửa đổi không tác động đến thu ngân sách nhà nước.
Về xóa nợ tiền phạt chậm nộp thuế phát sinh trước ngày 01/7/2013: dự kiến số tiền phạt chậm nộp được xử lý khoảng 4.800 tỷ đồng.
Đối với việc sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), trong đó có bổ sung quy định ưu đãi thuế TNDN đối với công nghiệp hỗ trợ (CNHT), Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, thời gian qua, để khuyến khích phát triển những lĩnh vực trọng tâm của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT), Chính phủ đã quyết định một số chính sách ưu đãi, khuyến khích tuy nhiên mới quy định ưu đãi về thuế nhập khẩu, về khả năng tiếp cận tín dụng. Các ưu đãi về thuế TNDN, ưu đãi về tiền thuê đất, tiền sử dụng đất chưa đủ để khuyến khích doanh nghiệp tăng cường, mở rộng đầu tư phát triển những lĩnh vực CNHT kể trên. Thực tế, theo quy định hiện hành thì lĩnh vực CNHT chưa thuộc lĩnh vực được ưu đãi thuế TNDN.
Qua thống kê, tỷ lệ cung ứng nguyên phụ liệu trong nước của một số ngành kinh tế trọng điểm tại Việt Nam hiện nay rất thấp. Trong 8 tháng năm 2014, kim ngạch nhập khẩu của cả nước là 94,162 tỷ USD (tăng 10,7% so với 8 tháng năm 2013); xuất khẩu là 97,233 tỷ USD (tăng 14,4%); xuất siêu là 3,171 tỷ USD. Riêng đối với thị trường Trung Quốc, tổng kim ngạch nhập khẩu là 27,162 tỷ USD; xuất khẩu sang Trung Quốc là 9,833 tỷ USD; nhập siêu là 17,331 tỷ USD.
Thống kê của Bộ Tài chính cho thấy, năm 2013 tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước là 132,125 tỷ USD và xuất khẩu ra nước ngoài là 132,134 tỷ USD (trong đó riêng đối với thị trường Trung Quốc, kim ngạch nhập khẩu là 36,954 tỷ USD, xuất khẩu là 13,259 tỷ USD, nhập siêu 23,695 tỷ USD).
Trị giá nhập khẩu của các nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng; nhóm hàng nguyên, phụ liệu (xăng dầu, sắt thép, phân bón, vật liệu dệt may) trong 8 tháng năm 2014 là 36,64 tỷ USD (tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm 2013). Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp các nhóm hàng này cho Việt Nam trong 8 tháng qua với trị giá là 12,86 tỷ USD (chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước).
Bên cạnh đó, để thực hiện có hiệu quả việc thực hiện các Hiệp định chuẩn bị ký kết (TPP, Việt Nam - EU, Việt Nam - Hàn Quốc,...) yêu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam để được hưởng ưu đãi phải đạt 60 - 65% nguyên vật liệu phải được sản xuất tại Việt Nam.
Do vậy, để góp phần giảm nhập siêu, thực hiện có hiệu quả việc thực hiện các cam kết quốc tế và hiệp định mà Việt Nam đang tham gia đàm phán cũng như tăng cường phát triển sản xuất kinh doanh hàng hóa đảm bảo cạnh tranh thắng lợi tại thị trường trong nước với trên 90 triệu dân và với sức mua bình quân 18 - 20%/năm, thì cần thiết phải có các chính sách phát triển lĩnh vực CNHT, để CNHT trở thành trụ cột thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước.
Theo đó, Chính phủ trình Quốc hội bổ sung sản xuất sản phẩm CNHT được áp dụng ưu đãi thuế TNDN như sau: Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển được áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế trong 04 năm và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo; trường hợp đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển nếu đáp ứng một trong ba tiêu chí về đầu tư mở rộng quy định tại Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 thì được hưởng ưu đãi thuế (cả thuế suất và thời gian miễn, giảm) theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn lại (nếu có).
Đồng thời, để chính sách ưu đãi thuế khuyến khích đúng các sản phẩm CNHT cần ưu tiên sản xuất, qua đó phát huy lợi thế cạnh tranh, khả năng sản xuất trong nước và tiềm năng xuất khẩu, khả năng tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu hay tham gia chuỗi sản xuất cung ứng sản phẩm, thiết bị cho các công ty đa quốc gia, Chính phủ trình Quốc hội quy định tại dự thảo Luật các tiêu chí, nguyên tắc xác định sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển được ưu đãi thuế để áp dụng cho những dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT, bao gồm: Sản phẩm CNHT cho công nghệ cao theo quy định của Luật Công nghệ cao; Sản phẩm CNHT cho sản xuất sản phẩm cơ khí chế tạo và sản phẩm CNHT cho linh kiện điện tử, phụ tùng, cơ khí ô tô là sản phẩm tính đến ngày 01/01/2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật; Sản phẩm CNHT cho dệt may, da giày là những sản phẩm phụ tùng, linh kiện, phụ kiện mà tính đến ngày 01/01/2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đạt được tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật.
Với các tiêu chí quy định nêu trên, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, Chính phủ đề nghị Quốc hội giao Chính phủ quy định cụ thể Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển./.