Định giá carbon và giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường carbon tại Việt Nam
Để giảm phát thải khí nhà kính với chi phí hiệu quả nhất, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã và đang lựa chọn công cụ định giá carbon. Bắt nhịp với xu hướng này, Việt Nam cũng đang trong quá trình tăng cường năng lực xây dựng các công cụ thị trường, tạo điều kiện cho việc hình thành thị trường carbon.
Khái quát về định giá carbon
Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank), định giá carbon là một công cụ tính toán các chi phí bên ngoài của phát thải khí nhà kính - chi phí phát thải mà công chúng phải trả, chẳng hạn như thiệt hại cho mùa màng, chi phí chăm sóc sức khỏe do các đợt nắng nóng và hạn hán, mất mát tài sản do lũ lụt và mực nước biển dâng lên và ràng buộc chúng với các nguồn của chúng thông qua một giá cả, thường ở dạng giá cả về lượng khí cacbonic (CO2) thải ra. Giá carbon giúp chuyển gánh nặng thiệt hại do phát thải khí nhà kính trở lại cho những người chịu trách nhiệm về nó và những người có thể tránh được nó. Chính phủ không phải sử dụng các công cụ áp đặt mà cung cấp một cơ chế thị trường để các cơ sở phát thải thực hiện.
Thay vì chỉ định ai nên giảm lượng khí thải ở đâu và bằng cách nào, định giá carbon đưa ra một tín hiệu kinh tế và những người gây ô nhiễm sẽ tự quyết định xem có nên ngừng hoạt động gây ô nhiễm của họ, giảm lượng khí thải, hay tiếp tục gây ô nhiễm và trả tiền cho việc tiếp tục phát thải. Bằng cách này, mục tiêu tổng thể về môi trường đạt được một cách linh hoạt nhất và ít tốn kém nhất cho xã hội. Giá carbon cũng khuyến khích các bên sử công nghệ sạch và đổi mới thị trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế carbon thấp.
Hiện có các hình thức định giá carbon chính được nhiều quốc gia áp dụng như:
ETS (Hệ thống giới hạn và thương mại) giới hạn tổng mức phát thải khí nhà kính và cho phép những ngành có lượng phát thải thấp bán phụ cấp của họ cho các nhà phát thải lớn hơn. Bằng cách tạo ra cung và cầu cho phép phát thải, ETS thiết lập giá thị trường cho phát thải khí nhà kính.
Thuế Carbon trực tiếp định giá carbon bằng cách xác định thuế suất đối với lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính hoặc đối với hàm lượng Carbon của nhiên liệu hóa thạch. Không giống như hệ thống thương mại hạn mức phát thải, thuế Carbon không đảm bảo mức giảm phát thải tối đa. Thay vào đó, cơ chế này cung cấp sự chắc chắn về chi phí biên của việc thải CO2.
Vì thuế carbon định giá trên mỗi tấn khí nhà kính thải ra, công cụ này sẽ khuyến khích các DN giảm phát thải để hạn chế mức thuế phải nộp. Việc lựa chọn giải pháp nào sẽ phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế của từng quốc gia. Ngoài ra, còn có nhiều cách gián tiếp để định giá carbon chính xác hơn, chẳng hạn như thông qua thuế nhiên liệu, loại bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch và các quy định có thể đưa vào “chi phí xã hội của carbon”
Cơ chế bù đắp chỉ định mức giảm phát thải khí nhà kính từ các hoạt động dựa trên dự án hoặc chương trình, có thể được bán trong nước hoặc ở các quốc gia khác. Các chương trình bù đắp phát hành tín chỉ carbon theo một giao thức kế toán và có cơ quan đăng ký riêng. Các khoản tín dụng này có thể được sử dụng để đáp ứng việc tuân thủ theo thỏa thuận quốc tế, các chính sách trong nước hoặc các mục tiêu về quyền công dân của DN liên quan đến giảm nhẹ khí nhà kính.
RBCF (Tài chính khí hậu dựa trên kết quả - Results-Based Climate Finance) là một cách tiếp cận tài trợ trong đó các khoản thanh toán được thực hiện sau khi các đầu ra hoặc kết quả được xác định trước liên quan đến quản lý biến đổi khí hậu, chẳng hạn như giảm phát thải, được chuyển giao và xác minh. Nhiều chương trình của RBCF nhằm mục đích mua các mức giảm phát thải khí nhà kính đã được xác minh đồng thời giảm nghèo, cải thiện khả năng tiếp cận năng lượng sạch và mang lại lợi ích cho sức khỏe và cộng đồng.
Định giá carbon nội bộ là một công cụ mà một tổ chức sử dụng trong nội bộ để hướng dẫn quá trình ra quyết định của mình liên quan đến các tác động, rủi ro và cơ hội của biến đổi khí hậu.
Đối với các chính phủ, việc lựa chọn loại định giá carbon dựa trên hoàn cảnh quốc gia và thực tế chính trị. Trong bối cảnh các sáng kiến định giá carbon bắt buộc, ETS và thuế carbon là những loại phổ biến nhất. Loại sáng kiến phù hợp nhất phụ thuộc vào hoàn cảnh và bối cảnh cụ thể của một khu vực tài phán nhất định và các mục tiêu chính sách của công cụ phải phù hợp với các ưu tiên kinh tế quốc gia và năng lực thể chế rộng lớn hơn. ETS và thuế carbon ngày càng được sử dụng theo những cách bổ sung, với các tính năng của cả hai loại thường được kết hợp để tạo thành các phương pháp tiếp cận hỗn hợp để định giá carbon. Một số sáng kiến cũng cho phép sử dụng các khoản tín dụng từ các cơ chế bù đắp như một sự linh hoạt để tuân thủ.
Ngày càng có sự đồng thuận giữa các chính phủ và DN về vai trò cơ bản của định giá carbon trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế khử carbon. Đối với các chính phủ, định giá carbon là một trong những công cụ của gói chính sách khí hậu cần thiết để giảm phát thải. Trong hầu hết các trường hợp, nó cũng là một nguồn thu, đặc biệt quan trọng trong môi trường kinh tế hạn chế về ngân sách. Các DN sử dụng định giá carbon nội bộ để đánh giá tác động của giá carbon bắt buộc đối với hoạt động của họ và như một công cụ để xác định các rủi ro tiềm ẩn về khí hậu và cơ hội doanh thu. Cuối cùng, các nhà đầu tư dài hạn sử dụng định giá carbon để phân tích tác động tiềm tàng của các chính sách biến đổi khí hậu đối với danh mục đầu tư của họ, cho phép họ đánh giá lại các chiến lược đầu tư và phân bổ lại vốn cho các hoạt động carbon thấp hoặc thích ứng với khí hậu.
Thị trường carbon trên thế giới
Thị trường carbon được bắt nguồn từ Nghị định thư Kyoto của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, được thông qua vào năm 1997. Theo Nghị định thư Kyoto, các quốc gia có dư thừa quyền phát thải được bán cho hoặc mua từ các quốc gia phát thải nhiều hơn hoặc ít hơn mục tiêu cam kết.
Từ đó, trên thế giới xuất hiện loại hàng hóa mới là các chứng chỉ giảm/hấp thụ phát thải khí nhà kính. Do carbon (CO2) là khí nhà kính quy đổi tương đương của mọi khí nhà kính nên các giao dịch được gọi chung là mua bán, trao đổi carbon, hình thành nên thị trường carbon hay thị trường tín chỉ carbon.
Sau Nghị định thư Kyoto, thị trường carbon đã phát triển mạnh tại các quốc gia châu Âu, châu Mỹ và cả châu Á. Có hai loại thị trường chính là:
Thị trường carbon bắt buộc/Thị trường bắt buộc (mandatory carbon market): Trên thị trường này, việc mua bán carbon dựa trên cam kết của các quốc gia trong Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC) để đạt được mục tiêu cắt giảm khí nhà kính. Thị trường này mang tính bắt buộc và chủ yếu dành cho các dự án trong cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế phát triển bền vững (SDM) hoặc đồng thực hiện (JI).
Thị trường carbon tự nguyện/Thị trường tự nguyện (voluntary carbon market): Nguyên tắc hoạt động của thị trường dựa trên cơ sở hợp tác thỏa thuận song phương hoặc đa phương giữa các tổ chức, công ty hoặc quốc gia. Bên mua tín chỉ tham gia vào các giao dịch trên cơ sở tự nguyện để đáp ứng các chính sách về môi trường, xã hội và quản trị DN (ESG) để giảm dấu chân carbon.
Các thị trường carbon lớn trên thế giới có thể kể đến như:
Thị trường thương mại phát thải quốc tế đầu tiên là của Liên minh châu Âu, vận hành từ năm 2005. Đây là công cụ chính sách quan trọng bậc nhất của Liên minh châu Âu nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, thực thi cam kết trong Nghị định thư Kyoto trước đây và sau này là Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Thị trường này chiếm khoảng 45% tổng lượng phát thải toàn châu Âu và khoảng 3/4 thị trường phát thải carbon toàn cầu.
Trung Quốc bắt đầu đề cập xây dựng thị trường carbon trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2015 và sau đó đã tiến hành thí điểm diện rộng tại các khu vực, thành phố với các mức độ kinh tế đa dạng khác nhau. Ngày 16/7/2021, thị trường giao dịch trao đổi carbon Trung Quốc đã chính thức vận hành nhằm đạt mục tiêu trung hòa carbon năm 2060.
Thị trường carbon được coi là công cụ chính để giảm phát thải khí nhà kính và đang phát triển nhanh chóng về thị phần giao dịch cũng như các tổ chức tham gia. Tiềm năng của giá trị thị trường Carbon được dự báo sẽ tăng mạnh trong giai đoạn 2030 -2050 khi các quốc gia buộc phải thực hiện đầy đủ các cam kết giảm phát thải của mình. Trên bình diện quốc tế, các quốc gia công nghiệp như: Mỹ, Canada, Nhật Bản và châu Âu sẽ vẫn là người mua chủ đạo trong khi các nước châu Mỹ La tin, Trung Quốc và Ấn Độ, châu Phi là người bán then chốt. Tuy nhiên, một số nước hiện đang là người bán sẽ chuyển sang vai trò là người mua vào cuối thế kỷ này.
Tất cả các quốc gia đều muốn tính toán giá thành cho việc giảm phát thải. Tuy nhiên, do chưa có thị trường thực sự và đúng nghĩa cho việc này, nên các tính toán này chỉ có thể đưa ra giá ảo. Giá ảo là giá hoặc giá trị quy đổi của hàng hóa và dịch vụ khi chúng không được xác định một cách chính xác do thiếu thị trường để hình thành giá cả, hoặc do có sự biến động của giá cả trên thị trường.
Theo tính toán, giá ảo của giảm phát thải là 161 USD/tCO2 cao hơn 50% so với giá ảo được ước tính trên quy mô toàn cầu vào năm 2100. Sự gia tăng này chứng tỏ, các hoạt động giảm thiểu được thực hiện trong giai đoạn đầu 2020-2035 sẽ thể hiện sự tiết kiệm cho các nước bên bán, dẫn đến các hành động giảm phát thải mạnh mẽ hơn. Ngược lại, đến năm 2050, những khoản tiết kiệm đó chuyển thành chi phí khi các quốc gia này trở thành người mua, và do vậy có khả năng hạn chế tham vọng giảm phát thải của họ.
Các quốc gia có cách tiếp cận định giá carbon khác nhau, đặc biệt có sự khác nhau giữa xây dựng thuế carbon và hệ thống thương mại giảm phát thải. Trong 41 nước OECD và G20 chiếm tới 80% việc sử dụng năng lượng trên toàn cầu và phát thải CO2 thì: 60% lượng khí thải carbon từ việc sử dụng năng lượng không được định giá. Theo World Bank, thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra từ một tấn khí thải CO2 được ước tính tối thiểu là 30 EUR. Hiện nay, ở các nước châu Âu, có khoảng 10% lượng khí thải được định giá ở mức dao động khoảng 80 EUR cho mỗi tấn CO2 .
Giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường carbon tại Việt Nam
Định giá carbon bao gồm thuế carbon, thị trường carbon và cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon. Tín chỉ carbon là chứng nhận hay đại diện cho quyền phát thải ra 1 tấn CO2 hoặc 1 tấn CO2 tương đương (quy đổi từ tấn khí nhà kính khác sang tấn khí CO2), gắn liền với giá trị giảm hay đền bù cho lượng khí nhà kính phát thải. Tín chỉ carbon là một loại mặt hàng mới được tạo ra khi thực hiện các hoạt động cắt giảm phát thải hoặc hấp thụ khí nhà kính trong quá trình thực hiện, được theo dõi và giao dịch giống như các loại hàng hóa khác, do đó trao đổi tín chỉ carbon còn được gọi là thị trường carbon. Thông qua thị trường carbon có thể tăng cường giảm phát thải khí nhà kính với chi phí của DN và xã hội thấp, thúc đẩy phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của DN.
Ngay từ năm 2012, Việt Nam đã tham gia và tích cực chuẩn bị cho quá trình hình thành và phát triển thị trường carbon trong nước, tiến tới hội nhập với khu vực và thế giới. Để hình thành thị trường carbon trong nước không chỉ phát huy nội lực của các DN mà còn cần sự đồng hành của các cơ quan có thẩm quyền.
Năm 2022 có ý nghĩa đặc biệt khi ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu bước sang giai đoạn mới với việc các bên bắt đầu thực hiện Thỏa thuận Paris. Trong đó, bao gồm đóng góp về giảm phát thải nhà kính được cam kết trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC). Việt Nam đã hoàn thành NDC cập nhật và đã gửi Ban Thư ký Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu. Tại Việt Nam, ước tính mỗi năm có thể bán ra 57 triệu tín chỉ carbon cho các tổ chức quốc tế và nếu tính theo giá 5 USD/tín chỉ, thì mỗi năm có thể thu về hàng trăm triệu USD.
Đến thời điểm này, thị trường carbon vẫn được xem là công cụ chính để giảm phát thải khí nhà kính. Tham gia thị trường carbon là cơ hội để tạo nguồn thu tài chính, tiếp nhận công nghệ hiện đại ít carbon và chung tay với thế giới trong mục tiêu giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Muốn làm được điều này, việc xây dựng, vận hành thị trường carbon còn là một quá trình dài, đòi hỏi đầu tư nhiều về kỹ thuật, nhân lực và tài chính.
Ngày 07/01/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon. Nghị định này có quy định cụ thể về lộ trình phát triển, thời điểm triển khai thị trường carbon trong nước. Trong đó, giai đoạn đến hết năm 2027 sẽ: Xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon; Triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025; Triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị trường carbon.
Ngoài ra, để phát triển thị trường carbon ở Việt Nam, còn cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về thị trường carbon, bao gồm hệ thống quản lý hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; ban hành định mức phát thải khí nhà kính trên đơn vị sản phẩm đối với các loại hình cơ sở sản xuất, kinh doanh, tổ chức phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho các cơ sở cho giai đoạn 2026 - 2030 và hằng năm.
Hai là, hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon quốc tế; thiết lập cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước.
Ba là, xây dựng cơ chế xác định tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính, phân bổ hạn ngạch và xác định mức phát thải khí nhà kính; ban hành đầy đủ quy định về các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới. Các quy định nhằm minh bạch hóa thị trường, tiệm cận và đáp ứng các yêu cầu quốc tế. Điều này rất cần thiết bởi trong bối cảnh các DN xuất khẩu nhiều ngành hàng đang hướng tới thị trường các quốc gia phát triển, vốn xem trọng các yêu cầu bảo vệ môi trường và đi đầu trong mua bán tín chỉ phát thải.
Bốn là, xây dựng hệ thống giám sát phát thải khí nhà kính và hệ thống MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm định) cấp quốc gia/ngành/tiểu ngành/cơ sở sản xuất một cách minh bạch, chính xác theo tiêu chuẩn quốc tế; xác định lộ trình giảm phát thải khí nhà kính cho từng ngành/tiểu ngành…
Năm là, hỗ trợ DN và các bên liên quan tiếp cận và sẵn sàng tham gia thị trường carbon tại Việt Nam.
Sáu là, tạo lập sàn giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; Tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức, quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới.
Tài liệu tham khảo:
- Quốc hội, Luật Bảo vệ môi trường 2020 số 72/2020/QH14;
- Hoàng Hùng (2020), Định giá carbon – công cụ tài chính xanh cho môi trường, VOV2 11/2020;
- Hà Cúc (2020), Định giá cho khí thải, Tạp chí Nhịp Cầu Đầu tư, 11/2020.
* ThS. Vũ Thị Yến Anh - Học viện Ngân hàng
** Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 6/2022