Doanh nghiệp ngành sữa chủ động nguồn nguyên liệu phát triển bền vững
Không chỉ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng trong nước, ngành sữa còn mang ý nghĩa chiến lược trong phát triển nông nghiệp bền vững, công nghiệp chế biến thực phẩm hiện đại, và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Nguồn nguyên liệu còn phụ thuộc nhiều từ nhập khẩu
Tại Hội thảo “Phát triển ngành sữa Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" do Bộ Công Thương tổ chức ngày 12/8 tại TP. Hồ Chí Minh, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài cho biết, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và an toàn thực phẩm ngày càng khắt khe, ngành sữa Việt Nam đứng trước cả cơ hội bứt phá lẫn sức ép cạnh tranh.
Để đạt mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn 2045, tăng mức tự chủ nguồn nguyên liệu trong nước, nâng tiêu dùng sữa bình quân đầu người, ông Trương Thanh Hoài cho rằng cần triển khai chiến lược phát triển đồng bộ từ vùng nguyên liệu, công nghệ chế biến, logistics đến phân phối; đồng thời hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thu hút đầu tư, khuyến khích đổi mới sáng tạo, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị.
Việc hợp tác quốc tế sâu rộng, tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) và xu hướng tiêu dùng xanh - bền vững cũng được xác định là đòn bẩy quan trọng.
Ngành sữa là một trong những ngành hàng thực phẩm thiết yếu, gắn trực tiếp với sức khỏe, tầm vóc và thể chất, trí lực của người Việt Nam. Không chỉ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng trong nước, ngành sữa còn mang ý nghĩa chiến lược trong phát triển nông nghiệp bền vững, công nghiệp chế biến thực phẩm hiện đại, và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và an toàn thực phẩm ngày càng khắt khe, ngành sữa Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội bứt phá và thách thức cạnh tranh gay gắt.
Đánh giá về nguồn nguyên liệu phát triển sữa tương trong nước, TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hiệp hội chăn nuôi Việt Nam cho rằng có nhiều lợi thế, thị trường sữa của Việt Nam còn rất lớn. Bình quân sữa/người của Việt Nam còn rất thấp; ngành công nghiệp sữa phát triển đúng nghĩa phải có ngành chăn nuôi bò và gia súc cho sữa; khoa học công nghệ sinh học, công nghệ chuồng trại, dinh dưỡng, giống và công nghệ số liên tục phát triển.
Theo báo cáo của Hội Chăn nuôi Việt Nam, trong những năm vừa qua, chăn nuôi bò sữa Việt Nam vẫn còn nhỏ lẻ, không tự chủ được nguồn nguyên liệu trong nước.
Thị trường sữa Việt phụ thuộc lớn vào bột sữa nhập khẩu để pha chế lại (sữa hoàn nguyên). Thực trạng này đã dẫn đến hệ luỵ người tiêu dùng trong nước không được tiếp cận nguồn dinh dưỡng tối ưu từ sữa tươi. Đồng thời việc nhập khẩu sữa bột và pha lại thành các sản phẩm sữa dạng lỏng sẽ làm giảm động lực của ngành chăn nuôi bò sữa, khiến người nông dân Việt Nam đứng ngoài chuỗi giá trị của ngành sữa trên chính quê hương mình.
Trong thời gian qua, với việc chủ động nguồn nguyên liệu, Công ty CP sữa Việt Nam không chỉ đáp ứng yêu cầu ngày càng tại thị trường trong nước, còn phát triển mạnh tại thị trường nước ngoài.
Tổng doanh thu hợp nhất quý 2/2025 của Vinamilk đạt 16.745 tỷ đồng, tăng 79 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức doanh thu quý cao nhất của doanh nghiệp từng ghi nhận. Động lực tăng trưởng đến từ sự phục hồi của mảng kinh doanh nội địa và tính ổn định của mảng kinh doanh quốc tế.
Về xuất khẩu, Vinamilk ghi nhận kết quả kỷ lục trong quý 2/2025 với doanh thu thuần đạt 1.887 tỷ đồng, tăng 8,5% so với cùng kỳ và tiếp tục tăng trưởng dương quý thứ 8 liên tiếp. Tại các thị trường truyền thống, Vinamilk đang từng bước cao cấp hóa danh mục sản phẩm dựa trên thế mạnh trong phân khúc phổ thông nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu và thương hiệu.
Tại các thị trường cao cấp, Vinamilk ghi nhận tín hiệu lạc quan với mức tăng trưởng doanh thu hai chữ số, đóng góp tích cực vào mức tăng chung. Đáng chú ý, Vinamilk là doanh nghiệp tiên phong đã được cấp phép xuất khẩu sản phẩm sữa đặc thương hiệu Ngôi sao Phương Nam vào thị trường Trung Quốc, mở ra dư địa tăng trưởng tại thị trường tiêu dùng lớn nhất châu Á.
Bên cạnh đó, Công ty vẫn dành nhiều nguồn lực cho việc phát triển thị trường mới thông qua hơn 40 sự kiện kết nối B2B và hội chợ quốc tế trong 6 tháng đầu năm. Những nỗ lực này giúp Vinamilk nâng tổng số thị trường xuất khẩu lũy kế lên 65. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2025, doanh thu thuần xuất khẩu đạt 3.507 tỷ đồng, tăng 15,5% so với cùng kỳ.
Công ty vẫn duy trì kế hoạch năm 2025 với tổng doanh thu 64.506 tỷ đồng (tăng 4,3% so với 2024) và lợi nhuận sau thuế 9.680 tỷ đồng (tăng 2,4% so với 2024).
Chủ động nguồn nguyên liệu
Đề xuất chiến lược phát triển ngành sữa Việt Nam tầm nhìn 2030–2045, ông Ngô Minh Hải- Chủ tịch HĐQT tập đoàn TH cho rằng, nhìn lại con số tăng trưởng ngành sữa tươi nguyên liệu trong gần 2 thập kỷ qua cho thấy: Từ mức tiêu thụ bình quân đầu người năm 2008 là 12 lít, tỷ trọng sữa tươi nguyên liệu trong sản phẩm sữa dạng lỏng 8%, đến giữa năm 2025 các tỷ lệ trên tương ứng 36 lít và 60%.
Nếu nâng mục tiêu tăng trưởng kép 2 con số trong 5 năm tới lên 18%, Việt Nam kỳ vọng vào năm 2030, sữa dạng lỏng với thành phần từ sữa tươi nguyên liệu sẽ thay thế hoàn toàn sữa hoàn nguyên.
Mục tiêu tới năm 2035: Với mức tăng tưởng tiêu dùng sữa 4%, lượng tiêu thụ sữa bình quân đầu người khoảng 54 lít/ người/năm, chủ động được trên 70% sữa tươi nguyên liệu cho sản xuất tiêu thụ trong nước (hiện đang là 40%).
TS. Nguyễn Xuân Dương cho rằng, việc chưa thể tận dụng hết toàn bộ dư địa phát triển của ngành sữa là do còn tồn tại những "nút thắt" lớn.
Trong đó, nhận thức tiêu dùng của người dân còn mơ hồ, chưa đầy đủ về giá trị dinh dưỡng của sữa. Nhiều nước bán sữa tươi ngang giá nước uống và dùng hằng ngày, nhưng ở Việt Nam vẫn còn tranh cãi về việc "nên hay không nên" sử dụng sữa thường xuyên.
Ngoài ra, việc quản lý sữa nhập khẩu còn bất cập, gây bất lợi cho sản xuất trong nước. Các tập đoàn như TH, Vinamilk, NutiFood vẫn phải tự nuôi bò để đỡ ngành, trong khi một bộ phận doanh nghiệp nhỏ không mặn mà thu mua sữa tươi nội địa.
Mặt khác, chi phí và chính sách cũng là "nút thắt" đối với sản xuất sữa trong nước. Giá thành sữa chăn nuôi, chế biến đang ở ngưỡng cao do chính sách chưa phù hợp. Mới đây, các hiệp hội (trong đó có Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hiệp hội Sữa Việt Nam) đã kiến nghị giảm chi phí tuân thủ, như công bố hợp quy và các khoản không cần thiết để hạ giá thành, kể cả chi phí vô hình.
TS. Nguyễn Xuân Dương cho rằng, trong chiến lược phát triển ngành sữa giai đoạn tới, phải nhìn nhận được những tồn tại nêu trên, có phương án xử lý nếu không sẽ tuột mất cơ hội vàng đối với sự phát triển bền vững.
Từ những vấn đề đó, TS. Nguyễn Xuân Dương đã đưa ra một số kiến nghị, đề xuất để phát triển nguồn nguyên liệu sữa tươi trong nước. Trước hết, cần quy hoạch lại vùng chăn nuôi bò sữa theo hướng tập trung, gắn chặt với vùng nguyên liệu thức ăn thô xanh, qua đó giảm chi phí vận chuyển, bảo đảm nguồn thức ăn ổn định và tăng cường kiểm soát dịch bệnh.
Các bộ, ngành liên quan cần hoàn thiện khung thể chế, chính sách pháp luật thống nhất, minh bạch về tiêu chuẩn chất lượng và quy chuẩn kỹ thuật; đồng thời ban hành cơ chế khuyến khích doanh nghiệp sản xuất, chế biến sữa ưu tiên sử dụng nguồn sữa tươi nguyên liệu trong nước.
Song song đó, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ trong chăn nuôi, chế biến sữa. Mô hình chăn nuôi tập trung, áp dụng công nghệ cao, kết hợp phát triển các hộ chăn nuôi bò sữa, dê sữa chuyên nghiệp trong hợp tác xã là giải pháp phù hợp để Việt Nam tự túc phần lớn nguồn nguyên liệu, đặc biệt cho dòng sản phẩm sữa tươi sạch trong tương lai gần. Đồng thời, cần tăng cường đào tạo, nâng cao tay nghề cho đội ngũ kỹ thuật viên và người chăn nuôi.