Chính sách tài chính ưu tiên phát triển KH&CN
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về khoa học và công nghệ (KH&CN), hệ thống các cơ chế, chính sách tài chính cho việc thúc đẩy phát triển hoạt động KH&CN liên tục được đổi mới và hoàn thiện, góp phần quan trọng trong việc thực hiện có kết quả các nhiệm vụ về phát triển KH&CN và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) cho hoạt động KH&CN đã đảm bảo được mục tiêu đặt ra theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2, Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) năm 1996 và các Nghị quyết của Quốc Hội, đạt mức 2% tổng chi NSNN (tương đương 0,5-0,6% GDP), đạt tốc độ tăng chi bình quân là 19% trong giai đoạn 2006-2012. NSNN là nguồn lực chủ đạo, chiếm tới 65-70% tổng đầu tư của toàn xã hội cho hoạt động KH&CN. Mức chi 2% dành cho KH&CN của Việt Nam là cao so với mặt bằng chung của các quốc gia trên thế giới, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Quốc hội và Chính phủ phát triển KH&CN.
2% tổng chi ngân sách quốc gia mà Quốc hội đã dành cho KH&CN từ năm 2000 là con số không hề nhỏ, tương đương 0,5 -0,6% GDP của Việt Nam. Đây là tỷ lệ rất cao so với thế giới, trong khi Nhật Bản chỉ đầu tư có 0,36%, Hoa Kỳ là 0,4%, Hàn Quốc 0,45%... GDP quốc gia cho KH&CN.
Bộ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ Nguyễn Quân
Thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách ưu đãi về tài chính, cho phép các doanh nghiệp (DN) được trích tối đa 10% lợi nhuận trước thuế để thành lập quỹ phát triển KH&CN tại DN, đã tạo cơ chế khuyến khích, thu hút các nguồn lực ngoài NSNN cho phát triển KH&CN. Nguồn lực đầu tư cho KH&CN ngoài NSNN đã chiếm khoảng 30-35% tổng đầu tư toàn xã hội.
Song song với việc ưu tiên cân đối và huy động các nguồn lực tài chính cho phát triển KH&CN, việc thực thi các chính sách tài chính trong phân bổ, sử dụng dự toán NSNN cho KH&CN cũng được thực hiện một cách linh hoạt, cụ thể:
- Theo quy định thì NSNN chỉ bố trí kinh phí cho các nhiệm vụ KH&CN đã được phê duyệt ở thời điểm lập dự toán NSNN. Nhưng trên thưc tế, để có nguồn kinh phí thực hiện các nhiệm vụ KH&CN cấp bách, phát sinh sau thời gian xây dựng dự toán NSNN, Bộ Tài chính đã trình Quốc hội và Chính phủ cho phép để lại một số kinh phí để kịp thời triển khai các nhiệm vụ KH&CN được phê duyệt sau thời gian lập dự toán (cụ thể, năm 2011, số kinh phí để lại là chưa được phân bổ do chưa xác định được nhiệm vụ tại thời điểm lập dự toán NSNN là 870 tỷ đồng, chiếm 18% chi NSNN, năm 2012 số kinh phí này là 404 tỷ đồng chiếm 7,5% chi NSNN cấp Trung ương cho KH&CN).
- Hàng năm, NSNN bố trí ít nhất 200 tỷ đồng để cấp bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ phát triển KH&CN quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia. Cho đến nay, NSNN đã bố trí 800 tỷ đồng cho Quỹ phát triển KH&CN quốc gia và 70 tỷ đồng cho Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia.
- Việc sử dụng kinh phí KH&CN thực hiện theo phương thức khoán quy định tại Thông tư liên tịch số 93/2006/TTLT-BTC-BKHCN. Việc thực hiện theo cơ chế khoán đã tạo sự chủ động, giảm bớt thủ tục hành chính cho các tổ chức KH&CN, nhà khoa học trong việc sử dụng nguồn lực tài chính, để thực hiện nhiệm vụ.
- Theo quy định của Luật NSNN thì dự toán kinh phí chỉ được sử dụng trong phạm vi năm ngân sách, nhưng riêng đối với các nhiệm vụ KH&CN thì thời gian sử dụng kinh phí được quy định sử dụng phù hợp với thời gian nghiên cứu của đề tài. Cơ chế này đã giảm bớt các thủ tục về thanh quyết toán, tạo điều kiện cho các nhà khoa học sử dụng kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, không bị ảnh hưởng bởi năm ngân sách.
Một số khó khăn, bất cập
Thứ nhất, phương thức phân bổ NSNN cho các tổ chức KH&CN chưa gắn với các yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể về sản phẩm KH&CN, chưa gắn với kết quả sản phẩm cuối cùng của đề tài, với sản phẩm đầu ra.
Đến nay, việc phân bổ dự toán kinh phí cho các đề tài, dự án KH&CN vẫn căn cứ vào Thông tư liên tịch số 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN, tức là vẫn căn cứ vào số lượng các chuyên đề để xác định nhu cầu kinh phí, dẫn đến việc để được tăng kinh phí thì phải tăng số lượng chuyên đề. Cách làm này đã dẫn đến tư tưởng chạy theo số lượng các chuyên đề nghiên cứu, mà không gắn với kết quả sản phẩm cuối cùng của đề tài. Hiện nay, Bộ KH&CN vẫn chưa xây dựng được một hệ thống khung định mức kinh tế kỹ thuật, nhân công, vật tư, thiết bị áp dụng cho đề tài KH&CN, vì vậy Bộ Tài chính cũng chưa có căn cứ ban hành các định mức tài chính phù hợp. Do thiếu hệ thống khung định mức này nên việc xây dựng dự toán và sử dụng kinh phí NSNN cho KH&CN chưa tiếp cận theo hướng tính đủ chi phí dẫn tới việc khó khăn trong đổi mới cơ chế xây dựng dự toán, kiểm soát chi, thanh quyết toán theo kết quả đầu ra đối với các nhiệm vụ KH&CN.
Thứ hai, cơ chế quản lý, xác định các nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước để làm cơ sở phân bổ ngân sách cũng còn những điểm bất cập.
Việc phân bổ NSNN cho hoạt động KH&CN cấp Nhà nước hiện đang được thực hiện theo các chương trình, đề án lớn đã được phê duyệt. Trong đó, chủ yếu là các chương trình trọng điểm, hệ thống các Chương trình quốc gia, Quỹ KH&CN quốc gia và các nhiệm vụ cấp Nhà nước. Bộ KH&CN trực tiếp quyết định khoảng 77% tổng số kinh phí dành cho các nhiệm vụ cấp Nhà nước. Số kinh phí còn lại (23%) do các bộ, ngành quyết định. Do vậy, vai trò của các bộ chủ quản ngành, lĩnh vực là những đơn vị trực tiếp thực hiện và thụ hưởng kết quả từ các nhiệm vụ KH&CN cấp Nhà nước còn hạn chế được tính chủ động
Thứ ba, nguồn lực ngoài NSNN chưa được khai thác hiệu quả để đầu tư phát triển KHCN, nhất là trong việc phát huy vai trò của Quỹ phát triển KH&CN quốc gia.
Thứ tư, khó khăn trong việc thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thực trạng các tổ chức KH&CN.
Theo quy định tại Nghị định số 115/2005/NĐ-CP, Bộ KH&CN có trách nhiệm trình Thủ tướng Chính phủ quyết định các tổ chức KH&CN thuộc loại được NSNN đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên Tuy nhiên, thực tế chưa có sự kiên quyết trong việc phân loại các tổ chức KH&CN, nên nhiều tổ chức KH&CN cố xây dựng phương án để nằm trong nhóm nghiên cứu cơ bản để tiếp tục được NSNN hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên. Các tổ chức KH&CN chưa chủ động trong việc yêu cầu các tổ chức trực thuộc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ rõ ràng, chi tiết, gắn với đặc thù hoạt động của đơn vị; việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ của một số đơn vị còn hình thức, chưa phù hợp với thức tế, chưa phát huy được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Thứ năm: quy trình xác định nhiệm vụ, xét chọn tuyển chọn và thẩm định các nhiệm vụ KH&CN còn chậm trễ, ảnh hưởng tới tiến độ phân bổ NSNN.
Hàng năm, Bộ KH&CN tiến hành việc xác định nhiệm vụ, xét chọn tuyển chọn và thẩm định các nhiệm vụ KH&CN đối với các đề tài KH&CN cấp nhà nước; làm việc với các bộ, ngành, địa phương về kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ KH&CN cấp bộ. Quy trình này còn mang nặng tính kế hoạch hoá tập trung, không phù hợp với đặc thù của lĩnh vực KH&CN, vốn là một lĩnh vực đòi hỏi sự chủ động, sáng tạo.
Một số giải pháp đổi mới cơ chế tài chính phát triển KH&CN
1. Huy động và đa dạng hoá nguồn lực đầu tư
- Tiếp tục đảm bảo bố trí đủ nguồn lực và nâng cao hiệu quả đầu tư từ NSNN cho hoạt động KH&CN: Thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ tổ chức và hoạt động KH&CN để đảm bảo chi có hiệu quả 2% tổng chi NSNN, đồng thời khắc phục tình trạng nhiều kết quả nghiên cứu không được ứng dụng như hiện nay; tăng cường chi phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị để nâng cao năng lực nghiên cứu của các tổ chức KH&CN. Việc ấn định phân bổ tỷ lệ 2% tổng chi NSNN hàng năm cho phát triển KH&CN tuy có điểm tích cực là tạo được nguồn lực cho lĩnh vực phát triển KH&CN, song đã dẫn đến tình trạng bố trí chi NSNN hàng năm cho KH&CN trong một số trường hợp không thực sự căn cứ theo hiệu quả hoạt động, năng lực, nhu cầu thực tế và khả năng thực hiện. Việc quy định cứng tỷ lệ 2% này cũng đã tạo gánh nặng lớn cho ngân sách địa phương trong điều kiện nguồn lực theo phân cấp ngân sách hạn chế. Để đảm bảo tỷ lệ 2% theo đúng quy định, buộc phải phân bổ cho một số địa phương có điều kiện về ngân sách trong khi nhu cầu thực tế của các địa phương này không lớn.
Để khắc phục tồn tại trên, cần cân nhắc đến việc không cân đối chi KH&CN theo tỷ lệ chi NSNN, mà cân đối theo dự toán, gắn với nhu cầu, nhiệm vụ cụ thể hàng năm. Có thể hơn 2% nhưng phải gắn liền với nhiệm vụ cụ thể tạo ra sản phẩm chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hoặc tính cho cả giai đoạn 5 năm theo tỷ lệ chi nhất định.
- Đa dạng hoá nguồn lực đầu tư KH&CN, có các chính sách đột phá để tăng cường đầu tư từ khu vực tư nhân cho hoạt động KH&CN: Hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính khuyến khích việc huy động các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển KH&CN. Hoàn thiện quy định về việc các cơ sở KH&CN công lập hợp tác, liên kết với địa phương, DN, cá nhân trong việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN.
2. Đổi mới cơ chế phân bổ và sử dụng NSNN
- Nhà nước tập trung đầu tư đồng bộ giữa hạ tầng cơ sở, trang thiết bị với đào tạo cán bộ KH&CN nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức KH&CN. Tăng cường đầu tư NSNN cho việc xây dựng một số tổ chức nghiên cứu và phát triển đạt trình độ hiện đại, tiên tiến, nhất là các tổ chức KH&CN đầu ngành có tiềm năng để thúc đẩy quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Có chế độ ưu đãi đặc biệt để thu hút chuyên gia giỏi trong nước và nước ngoài tới làm việc tại các tổ chức này.
- Tăng cường phân cấp, nâng cao vai trò, trách nhiệm, tính tự chủ của các bộ quản lý ngành, lĩnh vực, địa phương trong quản lý, sử dụng kinh phí KH&CN.
- Sửa đổi, bổ sung các tiêu thức cụ thể để xác định nhiệm vụ KH&CN, sử dụng NSNN phù hợp với nhu cầu, khả năng quản lý và thực hiện của từng cấp, trong đó quy định rõ các tiêu chí phân biệt đề tài KH&CN cấp Nhà nước, cấp bộ, ngành và cấp cơ sở.
- Có cơ chế gắn kết giữa nguồn kinh phí NSNN dành cho nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm với nguồn kinh phí để sản xuất, thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu.
3. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp khoa học công lập
- Thực hiện đổi mới đồng bộ cơ chế tài chính đối với các đơn vị KH&CN theo hướng tăng cường phân cấp và tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ và trong sử dụng nguồn lực trên cơ sở gắn với đặc điểm từng loại hình dịch vụ và nhu cầu của thị trường.
- Thực hiện cơ chế đấu thầu Nhà nước đặt hàng đối với các nhiệm vụ KH&CN dựa trên chất lượng thông qua quy trình lựa chọn khách quan, trước hết thực hiện đối với các sản phẩm quốc gia, sản phẩm công nghệ cao.
- Khuyến khích, tạo điều kiện để các nhà khoa học khai thác các hợp đồng nghiên cứu bên ngoài, từ đó các tổ chức KH&CN với thương hiệu và uy tín khoa học được tham gia nghiên cứu mở rộng.
Hoàn thiện hệ thống định mức phân bổ ngân sách và định mức, chế độ, tiêu chuẩn chi tiêu NSNN áp dụng cho đơn vị sự nghiệp KH&CN công lập trên cơ sở: (i) hạn chế số lượng định mức cứng, tăng số lượng các khung định mức, trần định mức để nâng cao sự chủ động của các cơ quan, đơn vị trong việc sử dung nguồn lực NSNN; (ii) phù hợp với phương thức lập dự toán ngân sách và phân bổ dự toán ngân sách cho các cơ quan, đơn vị theo kết quả đầu ra; (iii) phù hợp với kế hoạch chi tiêu trung hạn của ngành, lĩnh vực.
4. Hoàn thiện hệ thống các quỹ phát triển KH&CN
- Rà soát, xây dựng, bổ sung, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ của Quỹ phát triển KH&CN quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ đầu tư mạo hiểm.
- Nghiên cứu sửa đổi chính sách khuyến khích các DN trích lập và sử dụng có hiệu quả Quỹ phát triển KH&CN của DN.
- Khuyến khích hình thành các quỹ ngoài NSNN đầu tư cho KH&CN, trong thời gian đầu khi các quỹ này mới thành lập, Nhà nươc cần hỗ trợ một phần vốn thành lập ban đầu, coi đây là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác ngoài NSNN. Các quỹ có trách nhiệm quản lý, sử dụng, quay vòng và bảo toàn số vốn cấp ban đầu của NSNN có hiệu quả và ngày càng tăng trưởng.
5. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc sử dụng kinh phí NSNN đối với lĩnh vực KH&CN
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chuyên ngành thuộc Quốc hội, Chính phủ, bộ, ngành, địa phương theo chuyên đề, định kỳ hoặc đột xuất về việc thực hiện cơ chế, chính sách, nhiệm vụ KH&CN tại các bộ, ngành, địa phương, bao gồm cả việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc sử dụng kinh phí NSNN cho KH&CN, đảm bảo việc quản lý và sử dụng ngân sách KH&CN tiết kiệm, hiệu quả.
- Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra và đánh giá định kỳ kết quả hoạt động KH&CN; đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu và hỗ trợ ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn để đảm bảo chất lượng và hiệu quả hoạt động KH&CN. Bên cạnh đó, đẩy mạnh tổ chức đánh giá độc lập kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các tổ chức KH&CN.
6. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình việc sử dụng NSNN trong lĩnh vực KH&CN
- Nâng cao tính công khai, minh bạch, dân chủ trong quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp KH&CN. Hình thành hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn thành và chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao của các đơn vị KH&CN công lập gắn với việc sử dụng kinh phí NSNN trên cơ sở gắn với các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập.
- Hoàn thiện chế độ thông tin báo cáo, công tác tài chính kế toán và trách nhiệm giải trình về kết quả của các đơn vị cung ứng dịch vụ của các tổ chức KH&CN công lập.
Hiện 97% DN Việt Nam là DN nhỏ và vừa, đóng góp trên 40% GDP và 29% kim ngạch xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng đạt 18%/năm. Tuy nhiên, 80% DNNVV sử dụng công nghệ lạc hậu từ 3 - 4 thế hệ so với thế giới. Đa số DN sử dụng công nghệ của những năm 1980 và năng lực nghiên cứu đổi mới công nghệ rất hạn chế.
7. Các giải pháp có liên quan khác
- Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về KH&CN; phân công, phân cấp rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các cơ quan, đơn vị quản lý.
- Đổi mới căn bản việc xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Nhiệm vụ KH&CN phải được xác định một cách khoa học, trên cơ sở ý kiến tư vấn của hội đồng KH&CN do cấp có thẩm quyền quyết định thành lập. Cần xác định rõ vai trò trách nhiệm và thẩm quyền quyết định về mặt khoa học của Hội đồng tư vấn trong việc lựa chọn, xây dựng danh mục đề tài nghiên cứu.
- Xây dựng và phát triển thị trường KH&CN; duy trì các loại hình chợ công nghệ, tổ chức các Hội chợ triển lãm giới thiệu kết quả, sản phẩm nghiên cứu khoa học; xây dựng các trung tâm tư vấn, trung tâm thông tin KH&CN, cơ sở dữ liệu dùng chung...
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 1 - 2013
Đổi mới cơ chế tài chính đối với khoa học, công nghệ
(Tài chính) Nghị quyết số 20/NQ-TW ngày 1/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Khóa XI đã khẳng định phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Bởi vậy, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.
Xem thêm