Giải pháp phục hồi bền vững du lịch Việt Nam
“Ngay từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện, Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nhiều lần làm việc với các Bộ, ngành, kiến nghị Chính phủ các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động trong ngành Du lịch và sẽ tiếp tục các chính sách nhằm hỗ trợ du lịch phục hồi, phát triển bền vững thời gian tới”, Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Nguyễn Trùng Khánh khẳng định tại Diễn đàn trực tuyến toàn quốc có chủ đề “Giải pháp phục hồi bền vững Việt Nam”
Diễn đàn diễn ra theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến do Hiệp hội Du lịch Việt Nam tổ chức với hơn 100 điểm cầu trên toàn quốc và sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý du lịch, hiệp hội du lịch các tỉnh, thành phố, các chuyên gia, các doanh nghiệp, cơ quan thông tấn báo chí.
Trước những thiệt hại vô cùng nặng nề mà đại dịch COVID-19 đã gây ra với ngành Du lịch, Tổng cục Du lịch đã tham mưu, đề xuất với Chính phủ và các Bộ, ngành hỗ trợ những chính sách về thuế, chính sách tín dụng và chính sách an sinh xã hội cho doanh nghiệp, người lao động trong ngành.
Các chính sách cụ thể về thuế đã được thực hiện như: Gia hạn thời hạn nộp thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất năm 2021.
Bên cạnh đó là chính sách: giảm giá điện cho cơ sở lưu trú du lịch, hỗ trợ hướng dẫn viên bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19...
Để tiếp tục triển khai Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ về “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19’’, ngành Du lịch cũng đề xuất và được Chính phủ đồng ý về kế hoạch thí điểm đón khách quốc tế; triển khai Kế hoạch kích cầu, phục hồi du lịch nội địa toàn quốc.
Ông Đinh Mạnh Thắng, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Thừa Thiên Huế đánh giá khả năng tiếp cận các chính sách hỗ trợ của các doanh nghiệp du lịch và thực tế triển khai các chính sách hỗ trợ trong thời gian qua còn chậm và khó khăn.
Ông Thắng đề xuất các chính sách hỗ trợ cụ thể để phục hồi du lịch như: Giảm thuế suất VAT từ 10% xuống 5% đến hết năm 2022 cho hoạt động kinh doanh du lịch; điều chỉnh giá điện áp dụng cho các cơ sở lưu trú du lịch ngang bằng với giá điện sản xuất những năm tới; kéo dài chính sách giảm tiền thuê đất đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 đến hết năm 2022; điều chỉnh thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ, gia hạn nợ tối thiểu là 24 tháng (đến khi hết dịch) hoặc đến khi dịch COVID-19 được kiểm soát và hoạt động du lịch được triển khai bình thường; có chính sách thiết thực hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực cho toàn ngành Du lịch sau khi kết thúc dịch; đối với doanh nghiệp du lịch, cần chủ động xây dựng phương án làm việc an toàn theo quy định của Ban chỉ đạo phòng, chống COVID-19 các địa phương và theo nội dung Bộ tiêu chí an toàn trong hoạt động du lịch, Hướng dẫn 3862 của Bộ VHTTDL.
Phó Chủ tịch Hiệp hội du lịch Quảng Ninh Đào Mạnh Lượng, Chi hội trưởng Chi hội tàu du lịch Hạ Long từ thực tế triển khai các chính sách hỗ trợ trong thời gian qua cho rằng, các chính sách thì rất nhân văn nhưng doanh nghiệp rất khó tiếp cận vì những quy định phức tạp.
Theo ông Lượng, trong gần 2 năm qua, đại dịch COVID-19 đã làm doanh nghiệp du lịch nói chung, các doanh nghiệp kinh doanh tàu du lịch trên vịnh Hạ Long nói riêng khánh kiệt. Chi hội tàu du lịch Hạ Long (trực thuộc Hiệp hội du lịch Quảng Ninh), có 240 hội viên là các chủ tàu, các doanh nghiệp chuyên kinh doanh tàu tham quan và lưu trú trên Vịnh Hạ Long.
Hiện nay Chi hội đang sở hữu 505 tàu các loại. Lực lượng lao động thường xuyên là 4.000 người và thời gian cao điểm con số lao động lên tới 6.000 người. Không có khách, không nguồn thu nhưng doanh nghiệp vẫn phải chi tiêu để duy trì một số hoạt động (chi phí trông coi, bảo dưỡng, chi phí hành chính khác), chờ đợi thời cơ để phục hồi trở lại. Việc chi tiêu này khiến cho nhiều chủ tàu đường cùng tìm đến vay vốn từ “tín dụng đen”, dẫn tới nhiều hệ lụy sau đó.
Dẫn ra ví dụ từ doanh nghiệp của mình, ông Lượng cho biết 1 tháng ông phải chi ra ít nhất 200 triệu, 6 tháng tiêu hết 1 tỉ đồng. Hoạt động kinh doanh dừng từ tháng 3/2020 cho đến thời điểm hiện tại, ngày cuối của tháng 11/2021 thì doanh nghiệp của ông mất khoảng 4 tỉ đồng để chi phí duy trì cho 8 tàu du lịch.
Để duy trì 8 con tàu này, ông Lượng đã phải bán bớt tàu để trả nợ và duy trì, chi phí cho những con tàu còn lại. “May mắn là tôi đã bán được. Tôi nói từ “may mắn” bởi thời điểm này bán tàu cũng rất khó, không có ai muốn mua tàu trong thời điểm này cả”, ông Lượng nói.
Theo ông Lượng, mặc dù chúng ta cũng đang hi vọng khôi phục và đã đang từng bước thận trọng thực hiện các hoạt động du lịch nhưng trên thực tế chúng ta cũng đang vấp phải rất nhiều khó khăn.
Khó khăn thứ nhất là không có khách du lịch, bởi tâm lý khách vẫn còn e ngại đi du lịch trong thời điểm này, Quảng Ninh cũng mới chỉ đón khách nội tỉnh. Bên cạnh đó, đây không phải mùa du lịch nội địa, khách quốc tế thì giờ mới vào một vài địa phương, chưa vào Quảng Ninh.
Khó khăn thứ hai là không có lực lượng lao động do phần lớn lực lượng này đã chuyển nghề. Cộng với việc thiếu vốn đầu tư, trang sửa, sau hai năm xuống cấp, đóng cửa.
Khó khăn tiếp đến là do các cơ quan nhà nước đã đưa ra những quy định rất ngặt nghèo về phòng, chống dịch và mở cửa du lịch bởi sợ phải trách nhiệm trên địa bàn mình quản lý. Những quy định phòng dịch và mở cửa du lịch hiện nay không đồng bộ, thậm chí mỗi nơi một kiểu gây khó khăn và khiến các chủ tàu rất e ngại.
Nói về các chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp du lịch nói chung và chủ tàu du lịch Hạ Long nói riêng, ông Đào Mạnh Lượng cho rằng, chính sách hỗ trợ rất khó tiếp cận vì có quá nhiều thủ tục hành chính. Và nếu các doanh nghiệp có tiếp cận được các chính sách hỗ trợ đó thì cũng rất nhỏ và thực sự hỗ trợ đó không thể vực dậy doanh nghiệp.
“Ví dụ gói vay để phục hồi sản xuất, không một doanh nghiệp nào tiếp cận được bởi có một tiêu chí nhỏ mà hầu như không đáp ứng được, đó là xác nhận báo cáo quyết toán thuế của cơ quan thuế. Vì theo thông lệ thì đầu năm chưa có doanh nghiệp nào được cơ quan thuế đến quyết toán thuế và xác nhận, nhất là trong thời điểm dịch COVID như thế này nên 100% tàu du lịch Hạ Long chúng tôi không thể có được xác nhận. Đồng nghĩa không tiếp cận được gói hỗ trợ này”, ông Lượng cho biết.
Còn gói vay để trả lương cho nhân viên ngừng việc, ông Lương nói rằng, nghe thì có vẻ hay, rất nhân văn nhưng trên thực tế chưa đến 6% các doanh nghiệp có thể tiếp cận với gói vay này bởi liên quan tới điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội.
Điều kiện trong gói này rất rõ ràng, muốn vay thì phải có xác nhận của cơ quan bảo hiểm xã hội. Xác nhận rằng doanh nghiệp vẫn đang trả bảo hiểm xã hội cho các nhân viên đó cho đến thời gian vay. Nhưng thực tế, số tiền đóng bảo hiểm xã hội cũng rất lớn, nếu tất cả các công nhân viên công ty tôi vẫn đóng bảo hiểm thì như vậy chúng tôi đang "rất khỏe” không cần hỗ trợ.
Thực tế, sau khi các doanh nghiệp làm hồ sơ, trong tổng số 240 doanh nghiệp hội viên thì chỉ có 14 doanh nghiệp đủ điều kiện để vay, tỷ lệ đạt 5,8%. Và 14 doanh nghiệp này tiếp cận được gói vay đó, thì cũng chỉ được hỗ trợ cho 174 người lao động, trong khi chúng tôi có tới hàng ngàn người lao động, vậy thì tỉ lệ người lao động được tiếp cận gói hỗ trợ chỉ đạt 3-4%. Như vậy là con số quá nhỏ.
Hay người sử dụng lao động được hưởng chính sách hỗ trợ từ quỹ hỗ trợ bảo hiểm thất nghiệp. Người sử dụng lao động được giảm mức đóng 1% xuống 0% và được tham gia giảm 12 tháng. Nghe thì có vẻ hỗ trợ nhiều nhưng thực tế lại rất ít. “Công ty của tôi thời điểm hiện tại còn 24 nhân viên, mỗi tháng tôi phải chi trả cho các nhân viên là 150 triệu đồng, nhưng số tiền được giảm này chỉ được là 1,2 triệu đồng”, ông Lượng nói.
Gói hỗ trợ đóng quỹ bảo hiểm tai nạn lao động được giảm 0,5%, nếu giảm được 0,5% mỗi nhân viên được giảm 25.000 đồng/1 người/1 tháng và 24 nhân viên trong công ty của tôi được giảm 600 trăm nghìn đồng, trong khi đó số tiền nộp là 40 triệu đồng. Tính ra, một năm số tiền được giảm chỉ khoảng 7 triệu đồng nhưng số tiền doanh nghiệp phải nộp khoảng 500 triệu đồng.
Mặc dù Chính phủ đã nỗ lực hỗ trợ, chi rất nhiều tiền để hỗ trợ nhưng tác dụng thực sự từ hỗ trợ này đối với doanh nghiệp, để doanh nghiệp vực dậy tiếp tục hoạt động và hiệu quả việc hỗ trợ này chưa cao.
Bên cạnh đưa ra những thực tiễn mà các chủ tàu Hạ Long đang phải đối mặt, ông Đào Mạnh Lượng cũng cho biết dịch bệnh chưa biết bao giờ mới kết thúc, các chủ tàu cũng sẽ vẫn nỗ lực hoạt động, duy trì đảm bảo tốt nhất các dịch vụ để không làm thất vọng các công ty lữ hành, cũng như kỳ vọng của khách du lịch trong thời tới.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam Vũ Thế Bình cho rằng các doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ các hướng dẫn và tận dụng tối đa chính sách hỗ trợ của Nhà nước để phục hồi và phát triển. Tổng cục Du lịch và Hiệp hội Du lịch Việt Nam sẽ tiếp tục đồng hành với các doanh nghiệp khắc phục hậu quả do dịch COVID-19 gây ra, thích ứng an toàn, linh hoạt với dịch bệnh, phục hồi và phát triển bền vững.