Những vướng mắc phát sinh
Qua báo cáo sơ bộ từ các bộ, ngành, địa phương với hơn 40 đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt cho thấy, về cơ bản các đơn vị đều thực hiện nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao và tuân thủ đúng quy định tại Quyết định 929/QĐ-TTg. Tuy nhiên, đánh giá tổng hợp từ các đề án cũng đã phát sinh một số tồn tại, khó khăn cần tháo gỡ để công tác tái cơ cấu các TĐ, TCT được đẩy nhanh và đạt hiệu quả cao hơn.
Thực tế, với phần đánh giá thực trạng, một số các đề án chưa đánh giá hết các tồn tại trong quản lý điều hành, quản lý tài chính cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) trong các TĐ, TCT. Cụ thể: Cơ cấu tổ chức bộ máy của một số TĐ, TCT có nhiều đơn vị thành viên, nhiều phòng ban chức năng, hiệu quả hoạt động chưa cao; Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của nhiều DN năm sau thấp hơn năm trước; Hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu tại nhiều DN trong một số TĐ, TCT còn vượt mức cho phép theo quy định, dẫn đến khả năng mất an toàn về tài chính là rất cao; Việc đầu tư vào các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, tài chính, bất động sản không hiệu quả, làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của TĐ, TCT. Bên cạnh đó, đề án của một số TĐ, TCT còn nhiều hạn chế về việc sắp xếp thu gọn đầu mối DN trực thuộc, chưa nêu được các giải pháp đổi mới thiết bị công nghệ để tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu, năng lượng, tạo điều kiện tăng năng suất lao động, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng phù hợp với thị hiếu của thị trường, thân thiện với môi trường, đổi mới quản trị DN, tái cơ cấu lại tình hình tài chính, vay nợ, đào tạo đổi mới lao động.
Mặt khác, trong quá trình triển khai xây dựng đề án, nhiều TĐ, TCT cũng như các bộ, ngành và địa phương vẫn còn lúng túng khi áp dụng các quy định, cơ chế chính sách liên quan. Theo Quyết định 929/QĐ-TTg nhiều TĐ, TCT phải cổ phần hoá, nhưng khi thực hiện cổ phần hoá theo Nghị định số 59/2011/NĐ-CP về chuyển DN 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần đã gặp một số vướng mắc về mặt cơ chế, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện. Cụ thể như:
- Về tổ chức Kiểm toán Nhà nước xác định lại giá trị DN: Qua thực tế thực hiện, một số TĐ, TCT đề nghị nâng mức quy định về quy mô vốn nhà nước đối với DN phải được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán lại việc xác định giá trị DN từ 500 tỷ đồng lên 1.000 tỷ đồng, vì số lượng DN có vốn nhà nước trên 500 tỷ đồng là khá nhiều. Trường hợp các DN này cùng thực hiện cổ phần hóa thì việc kiểm toán sẽ không đảm bảo theo đúng thời hạn quy định, dẫn tới kéo dài thời gian.
- Về xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN: Vấn đề xác định giá trị quyền sử dụng đất quy định tại Nghị định số 59/2011/NĐ-CP và Thông tư số 202/2011/TT-BTC ngày 30/12/2011 của Bộ Tài chính đã khắc phục được những vướng mắc của Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ trước đây. Tuy nhiên, một số TĐ, TCT, địa phương cho rằng quy định thời hạn 30 ngày làm việc là ngắn, khó thực hiện khi phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất của địa phương chưa được phê duyệt. Ngoài ra, có nội dung quy định đối với việc đánh giá lại tài sản cố định là hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp DN đã cho thuê, đã thu tiền thuê ngay một lần cho toàn bộ thời gian của dự án khi cổ phần hoá. Mặt khác, một số TĐ, TCT đề xuất xem xét đưa ra quy định chỉ áp dụng hình thức thuê đất đối với các DN cổ phần hoá, ngoại trừ các DN kinh doanh hạ tầng, bất động sản vì quyền của chủ sở hữu nhà nước theo quy định của Luật Đất đai là có thể quyết định giao hoặc cho thuê đất đối với các tổ chức, cá nhân.
- Về quy định đối chiếu toàn bộ công nợ khi xác định giá trị DN: Theo phản ánh của một số TĐ, TCT thì việc đối chiếu toàn bộ công nợ theo quy định tại Nghị định số 59/2011/NĐ-CP là khó khăn, các DN hiện nay chỉ đối chiếu được 60 - 70%, do vậy quy định này sẽ làm chậm tiến độ cổ phần hóa của DN.
- Về quy định tổ chức đấu thầu chọn tổ chức tư vấn định giá: Theo phản ánh của một số bộ, ngành và DN thì việc tổ chức đấu thầu lựa chọn tổ chức tư vấn định giá cũng là một nguyên nhân làm chậm quá trình cổ phần hóa của DN. Phần lớn các hợp đồng tư vấn xác định giá trị DN thường không lớn (dưới 100 triệu đồng) nhưng phải tổ chức đấu thầu theo đúng quy định cũng làm hạn chế quá trình cổ phần hóa của DN. Ngoài ra, cũng có một số ý kiến đề nghị bỏ quy định tổ chức đấu thầu lựa chọn tổ chức tư vấn định giá.
- Một số TĐ, TCT trong diện phải cổ phần hoá có các đơn vị sự nghiệp cũng đã nảy sinh một số vướng mắc khi xây dựng phương án cổ phần hoá các đơn vị này còn chưa xác định được. Vấn đề đặt ra là có nên đánh giá lại giá trị của các đơn vị này không, có đưa giá trị DN của các đơn vị sự nghiệp này vào giá trị của TĐ, TCT khi xác định giá trị DN để cổ phần hoá? Bởi vì các đơn vị sự nghiệp không sinh lời trong quá trình hoạt động nên không có nguồn để trả cổ tức, còn nếu loại ra thì các đơn vị này sẽ do ai quản lý, ai là người quyết định tổ chức, nhân sự, cơ chế hỗ trợ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp này khi công ty mẹ cổ phần hoá?
- Các TĐ, TCT có số dư vay ngoại tệ tại thời điểm định giá và thời điểm chuyển sang công ty cổ phần là rất lớn. Khi còn là công ty nhà nước, việc đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ kế toán được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ để lấy nguồn trả nợ cho các năm sau. Nếu hạch toán toàn bộ chênh lệch tỷ giá làm cho DN lỗ thì được chuyển lỗ sang năm sau; còn đối với DN thực hiện cổ phần hoá tại thời điểm chuyển sang công ty cổ phần nếu hạch toán chênh lệch tỷ giá mà làm cho DN lỗ thì phải trừ vào vốn nhà nước. Điều này làm cho Nhà nước mất vốn ngược lại DN sau cổ phần, nếu có lãi thì được phân phối đồng nghĩa với việc lấy vốn của Nhà nước được trừ khi cổ phần hoá để phân phối.
- Việc sáp nhập, chia tách DN khi thực hiện tái cơ cấu các TĐ, TCT cũng đặt ra vướng mắc trong chuyển đổi chủ nợ đối với các khoản vay. Cụ thể, chuyển chủ nợ của công ty con về công ty mẹ, trường hợp công ty con hạch toán độc lập chuyển về trực thuộc công ty mẹ và ngược lại, chuyển nợ từ công ty mẹ sang công ty con đối với trường hợp chia tách.
- Theo Quyết định 929/QĐ-TTg, các DN thực hiện cổ phần hoá thuộc lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản thì Nhà nước giữ trên 75% vốn điều lệ, điều này có nghĩa là các đơn vị khai thác khoáng sản đã cổ phần hoá trước đây mà Nhà nước nắm giữ 51% vốn điều lệ thì nay DN phải bỏ tiền ra đầu tư cho đạt tỷ lệ 75%. Thực tế để thực hiện quy định này rất khó, vì nếu DN đầu tư tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần cũng đồng nghĩa với tăng tỷ lệ đầu tư chứng khoán nhưng lĩnh vực này lại phải triệt để thoái vốn chậm nhất là đến năm 2015.
- Việc thoái vốn đầu tư đối với các khoản đầu tư ra ngoài ngành sản xuất kinh doanh chính rất khó khăn và khó bảo toàn vốn nếu thực hiện thoái vốn trong tình hình khó khăn kinh tế, thị trường chứng khoán chưa khởi sắc.
Các giải pháp tháo gỡ
Để thực hiện tốt Đề án tái cơ cấu DN tạo bước đột phá, biến đổi về chất, mang lại hiệu quả cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, Nhà nước cần có những giải pháp sau đây:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Nghị định 59/2011/ NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về chuyển DN 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần để tạo điều kiện cho DN đẩy nhanh việc cổ phần hoá với nội dung cần bổ sung sửa đổi là:
- Đối tượng áp dụng phải kiểm toán: Xem xét điều chỉnh chỉ áp dụng 03 nhóm đối tượng gồm: Các DN hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề đặc thù (bảo hiểm, ngân hàng, bưu chính viễn thông, hàng không, khai thác than, dầu khí, khai thác mỏ quý hiếm khác); các công ty mẹ thuộc TĐ, TCT nhà nước có quy mô vốn chủ sở hữu từ 1.000 tỷ đồng trở lên; các DN khác theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ. Để đảm bảo tiến độ và thời gian thực hiện kiểm toán nhà nước theo quy định, các bộ, ngành, địa phương, các TĐ, TCT nhà nước cần sớm công bố công khai danh sách các DN sẽ thực hiện cổ phần hóa theo từng năm trong giai đoạn 2011 – 2015.
- Xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN: Để khắc phục triệt để những vướng mắc khi xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN thì cơ chế quản lý đất đai đối với các DNNN cổ phần hoá nên điều chỉnh theo hướng quy định về nguyên tắc, tất cả diện tích đất DN cổ phần hoá đang quản lý và sử dụng phải chuyển sang thực hiện ký hợp đồng thuê đất có thời hạn với cơ quan có thẩm quyền, trừ những trường hợp đặc biệt thì có cơ chế xử lý cụ thể. Quy định này nhằm khắc phục bất cập trong công tác quản lý, sử dụng đất tại các DN trong thời gian qua, tạo điều kiện thuận lợi để Nhà nước triển khai thực hiện các quy hoạch, sử dụng quỹ đất có hiệu quả, tránh thất thoát; khắc phục bất cập trong quá trình xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN trong thời gian qua để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá. Tuy nhiên, sửa đổi nội dung này phải phù hợp với quy định của Luật sửa đổi Luật Đất đai, đồng thời phải có cơ chế để xử lý tiền giao đất mà DN đã nộp để có quyền sử dụng đất khi thực hiện cổ phần hoá DN theo các chế độ trước đây.
- Việc đối chiếu toàn bộ công nợ khi xác định giá trị DN: Đối chiếu công nợ là việc làm thường xuyên của DN, tuy nhiên theo quy định thì tại thời điểm xác định giá trị DN, các DN phải đối chiếu xong toàn bộ các khoản nợ phải thu, nợ phải trả. Đây là quy định rất khó cho DN phải đẩy nhanh thực hiện trong thời gian ngắn, vì khối lượng công việc rất lớn, có DN có đến hàng nghìn món nợ. Để giải quyết khó khăn này, có thể cho giãn thời gian yêu cầu DN đến thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chuyển sang công ty cổ phần phải đối chiếu xong công nợ. Trường hợp đến thời điểm này vẫn chưa đối chiếu xác định xong công nợ thì đối với các khoản nợ phải trả DN được ghi tăng vốn Nhà nước tương ứng. Đối với nợ phải thu chưa có đối chiếu, thì xem xét, xử lý trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan đến khoản nợ, phần còn lại cho phép tính vào chi phí làm cơ sở xác định lại giá trị vốn nhà nước tại thời điểm bàn giao. Cùng với đó, giao trách nhiệm cho DN cổ phần tiếp tục theo dõi khoản công nợ phải thu đã xử lý này, khi thu hồi được sẽ phải nộp trả cho Nhà nước.
- Việc quy định tổ chức đấu thầu chọn tổ chức tư vấn định giá: Để tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho DN đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá, đề nghị sửa đổi việc quy định tổ chức đấu thầu theo quy định tại Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ, hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu. Cụ thể: Đối với các gói thầu tư vấn định giá có giá trị không quá 3 tỷ đồng và không có từ 02 tổ chức tư vấn định giá đăng ký tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn định giá trở lên thì cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án cổ phần hóa, quyết định chỉ định thầu lựa chọn tổ chức tư vấn định giá. Trường hợp gói thầu có giá trị không quá 3 tỷ đồng nhưng xét thấy cần phải tổ chức đấu thầu thì thực hiện đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu; Đối với các gói thầu có giá trị từ 3 tỷ đồng trở lên, DN cổ phần hóa phải tổ chức đấu thầu theo quy định. Cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án cổ phần hóa tiến hành lựa chọn tổ chức tư vấn định giá trên cơ sở kết quả đấu thầu.
- Đối với các đơn vị sự nghiệp trong TĐ, TCT: Khi cổ phần hoá DN với sức ép của chỉ tiêu cổ tức, sắp xếp lại lao động, các TĐ, TCT chỉ muốn để lại một số đơn vị sự nghiệp thật sự cần thiết cho mình sau này, trong khi hiện có rất nhiều đơn vị sự nghiệp tại các TĐ, TCT. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có cơ chế cho phép các TĐ, TCT được lựa chọn các đơn vị sự nghiệp cần cho TĐ, TCT cổ phần sau này, để cổ phần hoá. Các đơn vị sự nghiệp còn lại được bàn giao về cho bộ quản lý ngành để sắp xếp lại theo quy định hiện hành như chuyển các viện nghiên cứu thành các DN khoa học công nghệ, các viện, trường thành các đơn vị sự nghệp có thu, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần kinh phí.
Thứ hai, tạo cơ chế hợp lý để DN có thể tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước; Báo cáo Chính phủ cho phép sử dụng Quỹ sắp xếp đổi mới DN để hỗ trợ cho các dự án đầu tư mới, thay thế, đổi mới thiết bị khoa học công nghệ tiên tiến, phục vụ cho các ngành nghề kinh doanh chính của các TĐ, TCT; Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, kích cầu tiêu dùng trong nước và có chương trình hành động thiết thực để “người Việt thích dùng hàng Việt”, tạo điều kiện để DN mở rộng thị trường, tiêu thụ được sản phẩm, thúc đẩy sản xuất.
Thứ ba, có cơ chế tạo điều kiện cho các TĐ, TCT được chuyển chủ nợ khi thực hiện sáp nhập, chia tách DN theo Đề án tái cơ cấu DN; Các TĐ, TCT được đầu tư tăng tỷ lệ vốn góp vào các công ty cổ phần thuộc ngành nghề kinh doanh chính, để đạt tỷ lệ vốn nắm giữ ở công ty cổ phần theo quy định tại Quyết định số 929/QĐ-TTg.
Tóm lại, để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu DN, bản thân các TĐ, TCT nhà nước phải chủ động, triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu DN đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, tận dụng mọi điều kiện, nguồn lực, để đầu tư nâng cấp, mở rộng, đổi mới máy móc, thiết bị khoa học, công nghệ. Các TĐ, TCT phải chủ động và nhanh chóng sắp xếp lại tổ chức theo hướng tinh, gọn, hiệu quả để đưa bộ máy vào hoạt động. Đối với Nhà nước, cần hoàn chỉnh, bổ sung cơ chế chính sách phù hợp với trình độ quản lý. Các cơ quan quản lý chuyên ngành cần thường xuyên đối thoại, lắng nghe DN để có những điều chỉnh cơ chế, chính sách phù hợp, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để DN phát triển sản xuất kinh doanh.
Giải pháp tháo gỡ vướng mắc trong đề án tái cơ cấu của các doanh nghiệp
(Tài chính) Theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, đến nay đã có hơn 70 tập đoàn (TĐ), tổng công ty (TCT) nhà nước xây dựng xong đề án tái cơ cấu trình bộ quản lý ngành, uỷ ban nhân dân các tỉnh và Thủ tướng Chính phủ. Tính đến thời điểm hiện tại, có hơn 40 đề án tái cơ cấu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đánh giá sơ bộ, trong quá trình xây dựng đề án tại các TĐ, TCT đã xuất hiện một số vướng mắc cần giải pháp tháo gỡ…
Xem thêm