Nhìn lại chặng đường đầu…

Tiến trình mở cửa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã tạo ra cho hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam nhiều cơ hội phát triển mới, song cũng đặt hệ thống này nhiều rủi ro và bất ổn tiềm ẩn. Vì vậy, cơ cấu lại hệ thống các NHTM là việc làm cần thiết nhằm khắc phục những khó khăn, yếu kém và chủ động đối phó với những thách thức, giúp kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế vận hành và phát triển an toàn, hiệu quả, vững chắc, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Việc tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam nói chung và hệ thống các NHTM nói riêng xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan và khách quan. Thực tế, vấn đề này đã được đặt ra trước đó, tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau nên từ năm 2011 về trước chưa được triển khai triệt để. Chỉ tới khi Nghị quyết Trung ương 3, Khóa XI ra đời với trọng tâm là tái cơ cấu nền kinh tế, việc tái cơ cấu hệ thống tài chính, trong đó trọng tâm là các NHTM mới được xác định một cách nghiêm túc, quyết liệt và có lộ trình cụ thể. 4 mục tiêu của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng được Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xác định là: (i) Lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng; (ii) Xây dựng hệ thống ngân hàng có đủ sức cạnh tranh trong và ngoài nước, trong môi trường thế giới ngày càng có nhiều biến động. (iii) Cấu trúc lại cơ cấu hoạt động của hệ thống ngân hàng để đảm bảo giữa cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế một cách hợp lý. (iv) Hệ thống ngân hàng phải đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam.

Để thực hiện được 4 mục tiêu trên, đầu năm 2012, NHNN đã tiến hành một số giải pháp như phân hệ thống NHTM Việt Nam thành 3 nhóm lớn: Nhóm thứ nhất, gồm các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh, có năng lực, quy mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những ngân hàng trụ cột trong hệ thống NHTM. Nhóm thứ hai là các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhưng  quy mô còn nhỏ, khó có điều kiện để phát triển, mở rộng quy mô hơn nữa. Các TCTD loại này dự kiến sẽ được NHNN quy định lĩnh vực hoạt động để đảm bảo phù hợp với phân khúc của thị trường, nhằm phát huy được tiềm năng, thế mạnh và đảm bảo an toàn cho toàn thể hệ thống. Nhóm thứ ba là nhóm TCTD đang có tình hình tài chính khó khăn, buộc phải thực hiện tái cơ cấu bằng nhiều hình thức. Thông qua các biện pháp khác nhau, NHNN sẽ giám sát chặt chẽ và tiến hành chỉ đạo sắp xếp để không gây ra những xáo trộn, đổ vỡ, đồng thời bảo đảm tối đa quyền lợi của người gửi tiền.

Cuối năm 2011, NHNN đã chỉ đạo thực hiện việc hợp nhất ba ngân hàng thương mại cổ phần Ficombank, TinNghiaBank, SCB thành chủ thế mới với “bà đỡ” là NHTM cổ phần Đầu tư Phát triển Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn lại một năm qua, động thái sắp xếp tiếp theo chưa thể hiện sự quyết liệt cần thiết. Đầu năm 2012, NHNN từng tuyên bố có 8 TCTD nằm trong “tầm ngắm” buộc phải tái cơ cấu theo hình thức sáp nhập trong năm 2012 và cơ quan này tỏ rõ quyết tâm sẽ hành động mạnh mẽ, cương quyết. Tính từ đầu năm đến tháng 12/2012, chỉ mới có một trường hợp sáp nhập đó là NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) mua lại Habubank. Như vậy, hành trình sắp xếp theo hướng giảm số lượng TCTD yếu kém vẫn còn nan giải phía trước.

Với điểm tựa về mặt pháp lý là Quyết định 254/2012/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015” đã tạo ra một hành lang rộng để xử lý các ngân hàng yếu kém. Thế nhưng, việc triển khai trên thực tế lại không hề đơn giản trong bối cảnh các TCTD hầu hết đều phải giải quyết bài toán nợ xấu gia tăng trong năm 2012. Có lẽ vì vậy mà nhiều mục tiêu sắp xếp, cơ cấu lại các TCTD chưa thể đạt được và quá trình tái cấu trúc ngân hàng vẫn mới chỉ ở chặng đường đầu.

Một số giải pháp cấp bách tái cơ cấu hệ thống ngân hàng

Thứ nhất, tập trung giải hiệu quả quyết vấn đề nợ xấu. Đối với bối cảnh kinh tế Việt Nam cũng như tình hình tài chính của các TCTD hiện nay, giải pháp cấp bách đầu tiên là phải “phá băng” nợ xấu…

Thực tế hiện nay kênh dẫn vốn cho nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào ngân hàng khi ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng chiếm đến 75% tổng tài sản của khu vực tài chính. Kể từ năm 2008, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ, tác động sâu sắc đến kinh tế Việt Nam, tình trạng nợ xấu của các NHTM trong nước bắt đầu tăng lên. Trải qua khó khăn của năm 2011, 2012 khiến nợ đọng của DN sản xuất kinh doanh tăng thêm, bên cạnh đó, sự “đóng băng” của thị trường bất động sản đã làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng. 

Ngoài rủi ro khách quan mang lại, nợ xấu tồn tại trong chính yếu kém của không ít ngân hàng (do năng lực thẩm định có hạn, do năng lực quản trị hạn chế, do rủi ro đạo đức từ một số cá nhân...). Nhiều ngân hàng đã cho vay thiếu chọn lọc, lại có những giải pháp như “khoanh nợ”, “đảo nợ” cho DN. Theo ước tính của Ngân hàng Nhà nước, đến giữa năm 2012, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống lên tới 8,6%, thậm chí cao hơn. Bởi vậy, để tái cơ cấu ngân hàng thành công, việc tháo gỡ nút thắt nợ xấu hiện nay đóng vai trò rất quan trọng, thậm chí mang tính quyết định. Trước khối lượng nợ xấu lớn như hiện nay, giải pháp khả thi là phải “phá băng” được với thị trường bất động sản, giải quyết hàng tồn kho cho DN, giảm tỷ lệ nợ xấu của DN - giúp giảm tỷ lệ nợ xấu ngân hàng, kết hợp với chính sách mua nợ xấu, xử lý nợ xấu dứt điểm từ phía Nhà nước. NHNN rất cần có chính sách kiểm soát để các NHTM phải nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và giảm nợ xấu. Tập trung xử lý nợ xấu của các NHTM nhà nước để sớm làm sạch bảng cân đối của NHTM nhà nước; phấn đấu đạt tỷ lệ nợ xấu của các NHTM về dưới 3% theo tiêu chuẩn phân loại nợ và chuẩn mực kế toán của Việt Nam.

 Thứ hai, thúc đẩy hoạt động M&A, nâng cao khả năng tự chủ tài chính của ngân hàng. Tăng nhanh quy mô và năng lực tài chính thông qua tăng vốn để bảo đảm đủ mức vốn tự có theo tiêu chuẩn an toàn vốn của Basel II đến năm 2015 thông qua phát hành cổ phiếu bổ sung và nguồn vốn từ Chính phủ; Mua lại, sáp nhập TCTD và mở rộng nguồn vốn huy động.

Các ngân hàng muốn nâng cao khả năng tự chủ tài chính thì trước hết phải tăng vốn chủ sở hữu. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà chi tiêu ngân sách thắt chặt và thị trường chứng khoán chưa sớm khởi sắc thì giải pháp sáp nhập, hợp nhất và mua lại lẫn nhau trong hệ thống ngân hàng được coi là phương án tối ưu. Trước hết, cần khuyến khích các ngân hàng chủ động sáp nhập theo nguyên tắc thị trường trong thời hạn nhất định. Nếu các ngân hàng không chủ động sáp nhập thì NHNN cần phân tách và sáp nhập theo các nhóm: Nhóm 1 bao gồm các ngân hàng quy mô vừa và nhỏ, thường xuyên mất thanh khoản, cần sáp nhập với các ngân hàng có quy mô lớn hơn, có tính thanh khoản tốt nhằm đảm bảo hệ số an toàn về vốn và các hệ số thanh khoản khác; Nhóm 2 bao gồm các ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ, có tính thanh khoản trung bình thì cần thu hep phạm vi cho phù hợp với quy mô nhằm nâng cao chuyên môn hóa và khả năng quản trị rủi ro; Nhóm 3 bao gồm những ngân hàng có quy mô lớn, có năng lực quản lý tốt, cơ cấu tài sản lành mạnh thì tạo cơ hội để phát triển thành ngân hàng trọng điểm, sẽ là trụ cột đủ sức cạnh tranh với khu vực và chịu đựng cho nền kinh tế khi có những biến động lớn trên thị trường.

Trong điều kiện ổn định thì cần nâng cao vốn chủ sở hữu trên cơ sở lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và hoàn thiện chính sách phân phối lợi nhuận cho phù hợp với đặc điểm kinh doanh của mỗi ngân hàng. Trường hợp cần thiết có thể hạn chế NHTM cổ phần chia cổ tức, lợi nhuận; kiểm soát chặt chẽ việc chuyển nhượng cổ phần, vốn góp và tài sản của NHTM cổ phần; giảm dư nợ tín dụng và hạn chế mở rộng quy mô hoạt động.

Thứ ba, tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả. Thực tế cho thấy tiềm năng huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư là rất lớn vì tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt hiện nay còn rất cao. Vì vậy, tăng cường huy động vốn sẽ giúp cho các ngân hàng phát triển ổn định. Bên cạnh đó, cần chú trọng tăng huy động vốn trung và dài hạn thông qua kênh phát hành các công cụ tài chính. Trên thị trường tài chính trong nước, có thể phát hành trái phiếu có khả năng chuyển đổi - Đây là hình thức huy động vốn linh hoạt vì sẽ chủ động được kỳ hạn và quy mô vốn. Trên thị trường tài chính quốc tế có thể phát hành trái phiếu, cổ phiếu vì với xu thế hội nhập thì thị trường ngân hàng trong nước là địa điểm đầu tư khá hấp dẫn đối với NHTM nước ngoài.

Từ năm 2013 đến năm 2015, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ tập trung vào nâng cao các hiệu quả an toàn, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và củng cố, nâng chất hoạt động quản trị. Đặc biệt, Chính phủ sẽ tập trung xây dựng các nhóm ngân hàng lành mạnh, có đủ sức làm trụ cột cho hoạt động ngân hàng trong nước và phấn đấu để có thể có từ 1-2 ngân hàng đạt tiêu chuẩn khu vực.

Về sử dụng vốn, không nên đặt mục tiêu tín dụng là hoạt động chủ yếu trong sử dụng vốn của ngân hàng vì có nguy cơ rủi ro, làm cho thu nhập của ngân hàng giảm sút do bị thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay vì canh tranh gay gắt. Do vậy, nên mở rộng hình thức sử dụng vốn khác như thuê mua tài chính, liên doanh liên kết, bao thanh toán, tài trợ xuất khẩu, bảo lãnh cho các công ty phát hành trái phiếu dài hạn…

Thứ tư, quyết tâm thực hiện đúng lộ trình tái cơ cấu. Hoạt động tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ít nhiều có thể ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp và khách hàng. Bởi vậy, trong quá trình tái cơ cấu, cần phải theo dõi diễn biến thị trường, nâng cao công tác thanh tra giám sát nhằm điều chỉnh chính sách kịp thời, tránh những biến động bất lợi

Để hạn chế tâm lý bầy đàn khi thực hiện tái cơ cấu thì nên mở rộng công tác tuyên truyền đến dân cư để không tạo trạng thái người dân đổ xô đi rút tiền hoặc chuyển sang các kênh đầu tư khác. Vì vậy quá trình tái cơ cấu nên thực hiện thí điểm một số ngân hàng để rút kinh nghiệm và quá trình tái cơ cấu nên thực hiện từ từ. Có thể sáp nhập theo lãnh vực hoạt động trước, sau đó để bộ máy các cấp đồng bộ thì sẽ sáp nhập bộ máy cấp cao. Khi sáp nhập thì nên tiến hành từng bước nhằm tránh những tâm lý hoang mang từ dân cư, doanh nghiệp. Có thể sáp nhập các ngân hàng theo từng nhóm ngân hàng nhằm giải quyết nguồn lực đủ để trợ giúp thanh khoản từ NHNN. Như vậy sẽ tránh hiện tượng phải bơm khối lượng tiền lớn vào các ngân hàng để trợ giúp.

Thứ năm, áp dụng các hệ thống quản trị  quốc tế. Hội nhập quốc tế đòi hỏi ngân hàng phải có năng lực tài chính mạnh, kinh nghiệm quản trị rủi ro tốt, đặc biệt là có quy trình nghiệp vụ chuẩn mực tiên tiến và công nghệ hiện đại. Đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế tiên tiến, đặc biệt tăng cường hiện đại hóa hệ thống quản trị rủi ro, nâng cao hiệu quả hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ để các NHTM có khả năng tự kiểm soát một cách có hiệu quả các loại rủi ro trong hoạt động, trước hết là chất lượng tín dụng và khả năng thanh khoản.

Các NHTM cần hiện đại hóa hệ thống công nghệ, tạo điều kiện phát triển dịch vụ ngân hàng mới và nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời hỗ trợ quản trị ngân hàng có hiệu quả. Mỗi ngân hàng cần chủ động tiếp cận vốn thị trường tài chính quốc tế nhằm tìm kiếm và cải thiện cơ cấu nguồn vốn, mở rộng thị phần, tiếp thu công nghệ hiện đại và nâng cao khả năng quản trị trong hoạt động của mình.

Có thể thấy quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là một quá trình lâu dài, bao gồm nhiều biện pháp được triển khai theo từng bước, từ những biện pháp khẩn cấp lập lại lòng tin đến việc tạo dựng những cơ chế để xử lý những ngân hàng buộc phải sắp xếp. Bên cạnh tính pháp lý, yếu tố con người cũng rất quan trọng. Hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng cần phải được đào tạo và trang bị các kỹ năng để thực thi các luật định và các nhà quản lý ngân hàng cần phải thấy được các lợi ích thiết thực khi tuân thủ nghiêm túc các luật định phòng ngừa rủi ro và thi hành các tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán quốc tế. Nói cách khác, khuôn khổ pháp lý xung quanh viêc tái cấu trúc ngân hàng cần đảm bảo một cơ cấu thưởng phạt nhất quán để trừng trị các hành động gian lận, đầu cơ, đồng thời tưởng thưởng thái độ tuân thủ pháp luật về phòng ngừa rủi ro.

Tài liệu tham khảo:

1.“Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nên đặt trọng tâm vào sự phát triển bền vững” - PGS., TS. Nguyễn Thị Mùi - 2012;

2. Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015”;

3. Quyết định 254/2012/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”.

Bài đăng Tạp chí Tài chính số 12-2012

Giải pháp trọng tâm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại

TS. Đặng Thị Ngọc Lan, ThS. Hoàng Lê Nguyên

(Tài chính) Đã hơn một năm trôi qua kể từ thời điểm Việt Nam quyết tâm tái cơ cấu mạnh mẽ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, quá trình này mới chỉ đạt được một số thành công nhất định… Bài viết nhìn lại công cuộc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trong và đề xuất một số giải pháp trọng tâm để tiến trình đạt hiệu quả đề ra.

Xem thêm

Video nổi bật