Giải pháp xử lý nợ xấu từ góc nhìn chuyên gia

Theo ncseif.gov.vn

(Tài chính) Nợ xấu đã và đang tác động tiêu cực đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Rất nhiều giải pháp được các chuyên gia “hiến kế” để xử lý.

Giải pháp xử lý nợ xấu từ góc nhìn chuyên gia
Nợ xấu đã và đang tác động tiêu cực đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Nguồn: internet
Tiếp sức cho hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM)

Theo TS. Nguyễn Đức Thành – GĐ Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) - Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, nhìn vào quá trình tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu ngân hàng tại Việt Nam có thể thấy các bước thực hiện đi theo lộ trình tương đối rõ ràng: Hỗ trợ và khôi phục thanh khoản cho toàn hệ thống ngân hàng thương mại. Sáp nhập hoặc loại bỏ các ngân hàng và tổ chức tín dụng yếu kém trong hệ thống ngân hang. Quá trình này được thực hiện trong các năm 2013-2014 và vẫn đang tiếp diễn. Như kinh nghiệm của tất cả các nước cần tái cơ cấu hệ thống NHTM, quá trình thu hẹp số lượng các tổ chức tài chính và ngân hàng đều diễn ra trong giai đoạn này.

Song song với hàng loạt biện pháp trên, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) yêu cầu các ngân hàng phải khai báo đầy đủ và chặt chẽ các khoản nợ xấu. NHTM buộc phải trích lập dự phòng với các mức quy định cụ thể. Quá trình xử lý nợ xấu ở Việt Nam có một nguyên tắc là không sử dụng ngân sách, đây là điều khác biệt so với các nước khi họ đều phải sử dụng nguồn lực từ Ngân sách hay khoản vay quốc tế. Có thể nói trọng tâm của thời điểm xử lý nợ là NHNN đã thực hiện thông qua hai biện pháp chính là: yêu cầu các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro để bù đắp các khoản nợ xấu nhất và thành lập VAMC để tập trung xử lý các khoản nợ xấu trong hệ thống.

Với mô hình VAMC: Đây là một nỗ lực của NHNN trong bối cảnh bị ràng buộc về nguồn lực nhằm hỗ trợ hệ thống ở hai khía cạnh: giải quyết các khoản nợ xấu theo hướng tập trung và chuyên môn hóa hơn và hỗ trợ thanh khoản khi cần thiết. Tuy nhiên, do từ nửa cuối năm 2013, thanh khoản không còn là vấn đề lớn của hệ thống ngân hàng, nên VAMC chỉ tập trung vào việc quản lý và rà soát các khoản nợ xấu trong tiêu chuẩn của VAMC.

Theo TS. Thành, do nhiều yếu tố đặc thù nên việc giải quyết chỉ có thể được thông qua một trong các lựa chọn sau đây: Chính phủ phải sử dụng một nguồn lực tài chính để tiếp sức cho hệ thống ngân hàng TM, tạm thời mua lại các khoản nợ xấu và tái cấp vốn cho những NHTM yếu kém và cần có sự hỗ trợ trực tiếp. Thay đổi mạnh mẽ các quy định pháp luật liên quan đến phát mãi, mua bán tài sản thế chấp hoặc công trình, dự án liên quan đến các khoản nợ xấu. Trao thêm những quyền đặc biệt cho VAMC để công ty này có thể thực hiện việc xử lý nợ xấu tại các NHTM.

Sử dụng một phần nguồn lực của NHNN để trực tiếp xử lý các NHTM có vấn đề và các khoản nợ xấu có liên quan, có thể đi liền với quá trình quốc hữu hóa tạm thời hoặc yêu cầu sáp nhập một số ngân hàng kém lành mạnh. Vay một khoản tiền thích hợp từ các tổ chức tài chính quốc tế và phối hợp với họ trong việc giám sát quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và các khía cạnh có liên quan của nền kinh tế.

Dù áp dụng bất cứ giải pháp nào trong số các giải pháp nên trên, thì cũng cần lưu ý rằng việc giải quyết nợ xấu không phải là một việc riêng của NHNN và hệ thống NHTM. Đây là việc liên quan đến toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi sự tham gia và trách nhiệm của toàn bộ các cơ quan nhà nước khác, bao gồm cả Chính phủ và Quốc hội, cùng với hệ thống doanh nghiệp nói chung… Đồng thời, đây cũng là là quá trình huy động nguồn lực từ bên ngoài hệ thống ngân hàng để giúp hệ thống lấy lại cân bằng, xử lý nợ xấu, và phục hồi chức năng trung gian tài chính.

Kiểm soát từ khâu cho vay


Để quản lý nợ xấu, tối đa hóa lợi nhuận cho các ngân hàng, Giám đốc dịch vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp của Công ty Grant Thornton Việt Nam Matthew Lourey “hiến kế”: Khi cho vay, các ngân hàng thương mại cần phải kiểm soát mục đích sử dụng các khoản vay của doanh nghiệp; có chứng từ vay vốn rõ ràng; cũng như duy trì các kênh liên lạc giữa ngân hàng và doanh nghiệp để có thông tin trao đổi kịp thời. Ngược lại, các doanh nghiệp cũng phải tiến hành trích lập dự phòng, khi có những phát sinh khoản thu khó đòi.

Thêm vào đó, doanh nghiệp cũng có thể xử lý nợ xấu thông qua việc bán nợ cho các tổ chức mua bán nợ chuyên nghiệp. Việc bán nợ này cũng có thể coi là phương án xử lý nợ xấu nhanh nhất, giúp chủ nợ thu hồi một phần vốn kinh doanh để phục vụ cho các nhu cầu và cơ hội kinh doanh mới, nhằm cải thiện tình hình tài chính.

Tái cấu trúc doanh nghiệp là một trong những gợi ý cụ thể của vị chuyên gia này trong việc xử lý nợ xấu. “Việc ngân hàng yêu cầu khách hàng thực hiện tái cấu trúc đưa lại kết quả là công ty có được hoạt động bền vững và không bị rơi vào tình trạng phá sản”, ông Matthew Lourey nhấn mạnh..

10 giải pháp của VAFI

Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) vừa có bản đề xuất 10 giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.

Thứ nhất, các ngân hàng chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu, chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Việc làm này, theo VAFI, sẽ giúp ngân hàng thương mại nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng thời, có thể giảm quỹ lương nhưng làm tăng khả năng tài chính nội tại của ngân hàng.

Thứ hai, các ngân hàng cần có chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý trong giai đoạn khó khăn này. Cách thức này giúp giảm chi phí một cách hợp lý nhằm hỗ trợ cho việc tăng mức trích lập dự phòng tỷ lệ nợ xấu.

Thứ ba, Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 3 phương pháp. Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển.

Phương pháp thứ hai là chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Theo lý giải của VAFI, đây là cách thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ thế giới . Đối với Việt Nam, từ trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công, không những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn của các ngân hàng.

Để các điều kiện cơ bản để tiến trình chứng khoán hóa được thành công, theo VAFI, trong vai trò đồng chủ nợ các ngân hàng cần tích cực nâng cao tính cộng đồng hơn nữa, phối hợp với doanh nghiệp để xử lý nợ xấu. Đồng thời, các ngân hàng nên sử dụng các công ty con của mình như công ty quản lý mua bán nợ, công ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ để tham gia chủ động vào tiến trình chứng khoán hóa.

Thứ tư,
ngân hàng cần tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng lên 40%. Đồng thời cũng cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài lên mức 25% hoặc 30% vốn điều lệ.

Thứ năm, Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng nước ngoài có tiểm lực tài chính mạnh, quản trị doanh nghiệp tốt mua lại những nhà băng yếu kém. Những ngân hàng yếu kém, theo định nghĩa của VAFI, là những ngân hàng có quản trị kinh doanh yếu kém, có tỷ lệ nợ xấu rất cao.

Thứ sáu, Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng thật sự mạnh mua lại những ngân hàng yếu kém. Tuy nhiên, việc mua lại này cần sự hỗ trợ từ tài chính từ phía Ngân hàng nhà nước.

Thứ bảy, miễn các loại thuế (thuế GTGT, thuế Thu nhập doanh nghiệp…) cho các hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ. VAFI cho rằng, việc miễn các loại thuế về hoạt động mua bán nợ sẽ làm giảm tổn thất về nợ xấu, thúc đẩy các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường mua bán nợ. Đồng thời, thực hiện giải pháp này sẽ không làm tốn kém ngân sách nhà nước.

Thứ tám,
Nhà nước cần miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho nghiệp vụ phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính cho rằng, điều này giúp giảm lãi suất huy động, và giúp hệ thống ngân hàng thương mại có điều kiện huy động vốn dài hạn, thay vì ngắn hạn, đồng thời thúc đẩy tiến trình chứng khoán hóa các khoản nợ.

Thứ chín, phá băng thị trường bất động sản. Hiệp hội này lý giải, trong giai đoạn hiện nay vẫn còn hàng triệu người chưa có khả năng mua nhà, nếu giá nhà chỉ ở mức vài trăm triệu đồng một căn thì nhu cầu thực tế là rất lớn. Vì thế, nhà nước cần nhanh chóng biến sáng kiến căn hộ nhỏ tối thiểu 25 m2 thành hiện thực.

Đồng thời, theo VAFI, Nhà nước nên giảm 50% thuế GTGT trong các ngành kinh tế đang gặp khó khăn như xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh bất động sản, sửa chữa tàu biền, vận tải biển nội địa, cơ khí.

Thứ mười, Nhà nước nên cơ cấu lại phân bổ ngân sách cho theo hướng tăng chi ngân sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tằng. Không nên đặt mục tiêu tăng thâm hụt ngân sách mà phải là tăng chi ngân sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng trên cơ sở giảm chi ở các ngành lĩnh vực chưa cấp thiết.