Thực trạng giảm phát tại Nhật Bản
Nhật Bản đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế do tình trạng giảm phát kéo dài. Kể từ khi bong bóng tài sản tại Nhật Bản bùng nổ vào đầu thập niên 1990, "gọng kìm" giảm phát đã "siết" chặt kinh tế nước này. Lo sợ lạm phát bùng nổ do sự đổ vỡ của thị trường nhà đất và chứng khoán, Nhật Bản đã giảm mạnh cung tiền từ trên 11% năm 1990 xuống chỉ còn 0,6% năm 1991. Đây là nguyên nhân chính dẫn tới hiện tượng giảm phát tại Nhật Bản.
Cùng với những sai lầm trong giải quyết vấn đề nợ xấu, Nhật Bản đã tiếp tục rơi sâu hơn vào vòng xoáy giảm phát. Tình trạng giảm phát do thắt chặt tiền tệ, kéo theo gánh nặng nợ nần và đổ vỡ của các ngân hàng thương mại trong những năm 1990 được các nhà kinh tế gọi là tình trạng giảm phát - nợ. Năm 1998, nền kinh tế Nhật Bản chính thức rơi vào giảm phát. Đầu tư và tiêu dùng tư nhân bắt đầu giảm mạnh và giảm phát trở nên nghiêm trọng hơn.
Tốc độ tăng cung tiền (M2) tương đối ổn định 3% hàng năm ở Nhật Bản trong hai thập kỷ (1990 - 2010) cũng không ngăn chặn được giảm phát dai dẳng cũng như sự gia tăng rất lớn của nợ chính phủ. Cả hai giải pháp kích thích tiền tệ và tài khóa đều bị vô hiệu do người tiêu dùng tiết kiệm chi tiêu. Đây chính là “bẫy giảm phát” mà Nhật Bản đang mắc phải. Giảm phát làm cho gánh nặng nợ của doanh nghiệp (DN) lớn thêm vì nợ quá hạn gia tăng, lợi nhuận của DN giảm, tiền công thực tế trở nên cao hơn. Do đó, DN càng trở nên dè dặt trong đầu tư thiết bị khiến cho nhu cầu đầu tư tư nhân giảm, làm tổng cầu giảm theo.
Giá cả hàng hóa tại Nhật Bản liên tục giảm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2012 giảm 0,1% so với năm 2011, mức giảm này tiếp tục kéo sang năm 2013. Theo Bộ Nội vụ Nhật Bản, tính đến tháng 4/2013, CPI của nước này giảm 0,4% so với cùng kỳ năm 2012. Nhóm mặt hàng có mức giảm nhiều là tivi với 16,4%, xăng giảm 2%, trong khi nhóm mặt hàng tươi sống giảm 0,2%.
Tình trạng giá cả hàng hóa sụt giảm giúp Nhật Bản bán trái phiếu với mệnh giá cao hơn, nhưng lại gây ra giảm phát và đẩy tỷ lệ nợ công trên GDP tăng cao. Nợ chính phủ Nhật Bản hiện đang đứng đầu thế giới với hơn 13.000 tỷ USD, tương đương 230% GDP (2013). Giảm phát về giá cả dẫn tới giảm phát tài sản, những tổn thất khác khiến nền kinh tế suy sụp.
Ngoài mối lo giảm phát, Nhật Bản còn đang phải đương đầu với những thách thức kinh tế khác, nhất là sự tăng giá của đồng Yên. Quý I/2013, tỷ giá đồng Yên so với USD đã tăng 6%. Thông thường, giá cả đi xuống trong môi trường đồng tiền mạnh. Đồng Yên tăng giá khiến lợi nhuận tuyệt đối và tỷ suất lợi nhuận của các DN Nhật Bản bị bào mòn, đồng thời khiến các công ty của Nhật Bản gặp khó khăn nhiều hơn khi cạnh tranh ở thị trường nước ngoài.
Nguyên nhân cơ bản của giảm phát ở Nhật Bản là lợi nhuận ròng từ xuất khẩu không được sử dụng hiệu quả cho thị trường trong nước. Theo Giáo sư R.Taggart Murphy (Đại học Tsukaba ở Tokyo), nguyên nhân sâu xa của giảm phát chính là sự suy giảm trong sức sống của nền kinh tế (như không có đủ vốn đầu tư cho những công ty mới).
Giải pháp chống giảm phát
Bối cảnh giảm phát hiện tại không cho phép Nhật Bản tăng lãi suất cơ bản. Để kéo kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, Nhật Bản buộc phải tiếp tục bơm thanh khoản vào thị trường. Với đặc điểm dân số già, mong muốn giảm bớt phụ thuộc vào xuất khẩu và tăng trưởng tiêu dùng nội địa trong thời gian ngắn thực sự là bài toán khó. Để giúp kinh tế ra khỏi khủng hoảng, Nhật Bản vẫn phải duy trì thế mạnh về xuất khẩu của mình, điều này đồng nghĩa với đồng Yên mạnh sẽ là một trở ngại rất lớn.
Nhằm chống giảm phát, Chính phủ Nhật Bản thực thi hàng loạt chính sách bao gồm:
Thứ nhất, tích cực nới lỏng chính sách tiền tệ. Ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Nhật Bản là chính sách tiền tệ “siêu nới lỏng” và chi tiêu tài chính. Cụ thể, tháng 4/2013, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) công bố chính sách “tiếp tục nới lỏng tiền tệ về số lượng và chất lượng”. Theo đó, BOJ đã áp dụng “giám sát cơ số tiền tệ” để theo đuổi việc nới lỏng số lượng. BOJ nhất trí tăng cơ số tiền tệ lưu thông trên thị trường với tốc độ hàng năm khoảng 60.000 - 70.000 tỷ Yên (tương đương 583 - 680 tỷ USD, chiếm khoảng 13% - 15% GDP của Nhật Bản). Chỉ số giá tiêu dùng giảm buộc BOJ tiếp tục thực thi chính sách nới lỏng tiền tệ mạnh hơn nữa nhằm đưa giá cả tăng trở lại và bảo vệ nền kinh tế do tác hại từ chính sách đồng Yên mạnh.
Sự nới lỏng liên tục về tiền tệ có thể khiến giảm phát nhường chỗ cho lạm phát tích cực ở mức trung bình tại Nhật Bản. Chính sách nới lỏng tiền tệ được triển khai kết hợp cùng với biện pháp tài chính như tăng cường mua trái phiếu chính phủ, các tài sản tài chính nhiều rủi ro như quỹ đầu tư tín thác. Năm 2014, các ngân hàng Nhật Bản bắt đầu mua lại không giới hạn trái phiếu của Chính phủ Nhật Bản với tổng trị giá 13.000 tỷ Yên (khoảng 146 tỷ USD). Việc bơm tiền vào nền kinh tế chắc chắn sẽ dẫn đến giá cả tăng nhanh, đưa mục tiêu lạm phát lên 2% (2014 - 2015). Lượng tiền cơ sở (gồm tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi của các tổ chức tài chính) trong BOJ sẽ được nâng gấp đôi lên 270.000 tỷ Yên (tương đương 2.800 tỷ USD) năm 2014.
Thứ hai, tập trung đầu tư cho khu vực tư nhân. Chính phủ Nhật Bản cam kết sẽ nỗ lực thúc đẩy đầu tư cho lĩnh vực tư nhân và hoạt động của khối DN nhằm chấm dứt tình trạng giảm phát kéo dài gần hai thập kỷ qua tại nền kinh tế lớn thứ ba thế giới.
Chiến lược phát triển nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân và tiêu dùng, đi kèm với kế hoạch chi tiêu 117 tỷ USD trong gói kích thích kinh tế được coi là lớn nhất của Nhật Bản kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Thứ ba, thúc đẩy hoạt động của khối DN. Mục tiêu của Nhật Bản là tăng tổng vốn đầu tư cho DN thêm 10%, lên mức khoảng 70.000 tỷ Yên trong giai đoạn (2013 - 2015); tăng tổng thu nhập bình quân đầu người (hiện ở mức 3,84 triệu Yên trong tài khóa 2012) thêm hơn 1,5 triệu Yên trong giai đoạn (2013 - 2023). Nhật Bản cũng nỗ lực thúc đẩy cải cách phát triển kinh tế với các chính sách phù hợp để tiếp thêm sinh lực cho hoạt động của các DN như giảm mạnh thuế thu nhập DN...; Thiết lập các đặc khu kinh tế và nhấn mạnh tới vai trò của lĩnh vực kinh tế tư nhân trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung.
Để thúc đẩy cải cách ngành Điện, Chính phủ Nhật Bản sẽ tăng đầu tư cho các ngành liên quan lên 30.000 tỷ yên, tăng 1,5 lần so với năm 2010. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản đặt mục tiêu tăng gấp 3 lần kim ngạch xuất khẩu của các DN hoạt động trong lĩnh vực hạ tầng lên 30.000 tỷ Yên và tăng gấp đôi lên 1.000 tỷ Yên kim ngạch xuất khẩu nông phẩm và thực phẩm đến năm 2020.
Thứ tư, tăng mạnh chi tiêu công. Khi nghiên cứu về tình trạng giảm phát ở Nhật Bản, các nhà kinh tế hàng đầu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã chỉ ra rằng, cách tốt nhất để chống lại giảm phát là bắt đầu một gói kích thích cực lớn và nhanh chóng. Năm 2012, Nhật Bản chính thức công bố gói kích thích kinh tế mới lên đến 20.200 tỷ Yên (tương đương 226,5 tỷ USD) nhằm vực dậy nền kinh tế lớn thứ ba thế giới. Đây là gói kích thích kinh tế lớn nhất của chính phủ Nhật Bản kể từ năm 2009 với mục tiêu đưa nước này thoát ra khỏi tình trạng giảm phát triền miên. Trong số 20.200 tỷ Yên của gói kích thích kinh tế, có 11.300 tỷ Yên do chính quyền trung ương cấp. Phần còn lại do chính quyền các địa phương và khu vực kinh tế tư nhân góp sức. Đây là gói chi tiêu lớn nhất của Chính phủ Nhật Bản nhằm tạo ra tăng trưởng kinh tế bền vững thông qua việc khuyến khích đầu tư tư nhân, tăng cường sức cạnh tranh quốc tế của các công ty Nhật Bản cũng như thúc đẩy chương trình tái thiết sau thảm họa động đất – sóng thần (2011). Gói kích thích kinh tế này góp phần gia tăng áp lực đối với BOJ để nới lỏng tiền tệ, ngăn chặn sự tăng giá của đồng Yên khiến các nhà xuất khẩu Nhật Bản gặp nhiều khó khăn do hàng hóa giảm sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Tháng 2/2013, Nhật Bản thông qua dự thảo ngân sách bổ sung 13.100 tỷ Yên (khoảng 140,7 tỷ USD) nhằm kéo nền kinh tế thoát khỏi suy thoái do giảm phát. Việc ngân sách bổ sung sẽ giúp Nhật Bản thêm nguồn lực để chấm dứt tình trạng giảm phát và giúp tạo ra ít nhất 600.000 việc làm mới. Khoản ngân sách bổ sung này bao gồm chi tiêu cho các dự án công để sửa chữa cơ sở hạ tầng giao thông: các đường hầm và các cây cầu; Hỗ trợ các công ty sử dụng phương tiện tiết kiệm năng lượng và thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng các nhà máy; Cho phép Chính phủ tiếp tục khoản chi tiêu để trả lương hưu cơ bản.
Tháng 5/2013, Nhật Bản tiếp tục kích hoạt khoản ngân sách khổng lồ 92.610 tỷ Yên (tương đương 906.2 tỷ USD) để tập trung cho các công trình công cộng nhằm tạo đòn bảy vực dậy nền kinh tế. BOJ sẽ bơm thêm 1.400 tỷ USD vào nền kinh tế trong giai đoạn 2014 - 2015 nhằm chấm dứt tình trạng trì trệ kinh tế trong hơn 2 thập kỷ qua. Những nỗ lực của chính phủ góp phần làm giá trị đồng Yên giảm (vượt qua mốc 100 Yên/USD) thấp nhất trong vòng 4 năm qua. Đồng Yên giảm giá đã mang lại lợi ích cho các nhà xuất khẩu, niềm tin của các nhà đầu tư được dần khôi phục.
Thứ năm, tăng thuế doanh thu. Hiện tại thuế doanh thu của Nhật Bản ở mức 5% (thấp nhất trong số các nước công nghiệp hóa). Trong khi ở châu Âu, khoản thuế này lên tới gần 20%. Tăng thuế sẽ giúp sửa chữa thiếu sót hiện tại của Nhật Bản bởi doanh thu thuế của Nhật Bản hiện chỉ đạt 17% GDP- mức thấp nhất trong các thành viên thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Mục tiêu của Nhật Bản là tăng gấp đôi thuế tiêu dùng (hiện là 5%) và xây dựng lại hệ thống an sinh xã hội để cắt giảm chi tiêu công trong bối cảnh dân số lão hoá ngày càng nhanh. Theo kế hoạch, thuế tiêu dùng sẽ tăng mạnh từ 5% lên 8% trong tháng 4/2014 và lên 10% trong tháng 10/2015. Trong bối cảnh khủng hoảng nợ leo thang, dân số ngày càng già hóa và chi phí an sinh xã hội tăng cao, việc tăng thuế tiêu dùng sẽ cho phép Nhật Bản có cơ hội giữ được tốc độ tăng trưởng và cắt giảm được mức thâm hụt ngân sách.
Chính sách kinh tế của Thủ tướng Shinzo Abe đã phát huy tác dụng khiến kinh tế Nhật phục hồi nhanh chóng. Với chiến lược “kiềng 3 chân” của Chính phủ, đồng Yên đã giảm giá, xuất khẩu phục hồi, sản lượng công nghiệp trong 4/2013 đã tăng 1,7% so với tháng trước. GDP của Nhật Bản trong quý I/2013 tăng 3,5%.
Theo nhà kinh tế Nhật Bản - ông Nishibori, Nhật Bản nên tăng thuế doanh thu, nhưng chia đều ra trong mười năm với mức tăng là 1% mỗi năm. Phương pháp này sẽ giúp người tiêu dùng tránh được một cú sốc đột ngột và đảo ngược tình trạng giảm phát nhờ tạo ra tâm lý đoán trước lạm phát. Theo ông, phương pháp này không chỉ giảm nhẹ ảnh hưởng đối với người tiêu dùng mà còn hạn chế giảm phát bằng cách tạo ra lạm phát kỳ vọng. Về nguyên tắc, người tiêu dùng sẽ cắt giảm chi tiêu nếu như thuế đột nhiên tăng đến 10%, nhưng khi nó tăng từ từ và được dự báo sẽ tiếp tục tăng thì người dân vẫn chi tiêu như bình thường.
Nhận xét – đánh giá
Chính sách kinh tế của Thủ tướng Shinzo Abe đã phát huy tác dụng khiến kinh tế Nhật phục hồi nhanh chóng. Với chiến lược “kiềng 3 chân” của Chính phủ, đồng Yên đã giảm giá, xuất khẩu phục hồi, sản lượng công nghiệp trong 4/2013 đã tăng 1,7% so với tháng trước, đánh dấu tháng thứ năm tăng liên tiếp. GDP của Nhật Bản trong quý I/2013 tăng 3,5%. Kết quả tích cực này nhờ phần lớn được thúc đẩy bởi nhu cầu nội địa tăng cao do tâm trạng lạc quan của người tiêu dùng. Đầu tư vẫn mạnh trong lĩnh vực phi sản xuất, nhờ chính sách nới lỏng tiền tệ và các biện pháp kinh tế hiệu quả khác, bên cạnh đó là sự hồi phục của các nền kinh tế thế giới.
Chi tiêu hộ gia đình đã tăng 0,8% so với cùng kỳ năm ngoái, niềm tin kinh doanh tại Nhật Bản đã được cải thiện đáng kể. Chỉ số niềm tin của các nhà sản xuất lớn tăng 4 điểm trong quý I/2013 sau khi giảm liên tiếp trong 2 quý trước đó.
Với gói kích thích “khủng” 226,5 tỷ USD (tính đến tháng 5/2013) nhằm tăng lạm phát lên 2%, đồng Yên lập tức giảm giá so với USD. Tiền mất giá khiến giá trị cổ phiếu giảm theo. Các nhà đầu tư tranh thủ “cơ hội” mua vào ồ ạt khiến thị trường chứng khoán Nhật Bản tăng mạnh. Hoạt động bảo lãnh cổ phiếu và trái phiếu của các ngân hàng đầu tư Nhật Bản cũng bùng nổ mạnh mẽ. Nhật Bản phát hành số cổ phiếu có tổng trị giá 1.700 tỷ Yên (tương đương 17 tỷ USD), tăng gấp 3 so với cùng kỳ năm 2012. Lượng trái phiếu DN tăng lên 3.100 tỷ yên, mức cao nhất kể từ năm 2009. Các ngân hàng đầu tư cũng được hưởng lợi từ mảng môi giới chứng khoán bởi thị trường chứng khoán liên tục tăng điểm với hàng loạt các gói kích thích kinh tế, tăng 30% trong 6 tháng đầu năm 2013. Tỷ lệ thất nghiệp ở Nhật Bản nhờ đó cũng chưa bao giờ vượt quá 5,8%.
Tài liệu tham khảo:
1. Linda Yueh (2013), Abenomics: Can it really end deflation in Japan? News Business 25 April 2013;
2. Evsey D. Domar (2010), Public Debt and National Income, Economist’s View, August 2010;
3. Xuân Thành (2013), Nhật Bản thực thi chính sách kinh tế táo bạo: Đáng mừng nhưng còn thách thức. Chuyên san hồ sơ sự kiện (6/2013) của Tạp chí Cộng sản.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 7 - 2013
Giảm phát ở Nhật Bản: Thực trạng và giải pháp
(Tài chính) Giảm phát được coi là nguyên nhân chính dẫn đến sự trì trệ của kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên, Chiến lược "kiềng ba chân" (chính sách tiền tệ mạnh mẽ, chính sách tài khóa linh hoạt và chiến lược tăng trưởng khuyến khích đầu tư tư nhân) của Thủ tướng Shinzo Abe (12/2012) đã giúp nền kinh tế nước này có những dấu hiệu khởi sắc trong 6 tháng đầu năm 2013.
Xem thêm