Những điều cần biết về giám sát an toàn nợ công
Những tác động xấu từ suy thoái kinh tế toàn cầu đã dẫn đến tốc độ kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, lạm phát tăng cao, chính sách tài khoá thắt chặt song hành cùng chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm hỗ trợ tăng trưởng và giải cứu khủng hoảng nợ. Trước thực trạng này, yêu cầu đặt ra là cần phải tái cơ cấu lại nền kinh tế toàn cầu và cải cách hệ thống tài chính.
Theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), “nền kinh tế và thị trường tài chính tại Việt Nam bắt đầu ổn định, tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, tỷ lệ đầu tư công và nợ có bảo lãnh chính phủ/GDP đã giảm từ năm 2011 nhưng vẫn còn những nguy cơ đối với triển vọng nợ”. Vì vậy, việc đảm bảo tính bền vững của nợ công và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, trong đó vai trò giám sát an toàn nợ công đang là vấn đề cấp bách đặt ra đối với Việt Nam.
Hoạt động giám sát an toàn nợ công ở Việt Nam là việc làm thực sự cần thiết và đòi hỏi cấp bách đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Điều này xuất phát từ thực trạng hoạt động giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia, đồng thời đáp ứng đòi hỏi từ công tác quản lý nợ theo yêu cầu của Luật Quản lý nợ công cũng như phù hợp với quan điểm và mục tiêu của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Giám sát nợ là việc của Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Hoạt động này được thực hiện thường xuyên thông qua hệ thống các chỉ số giám sát nợ và các chỉ tiêu an toàn nợ, để thực hiện theo dõi, đánh giá tình trạng nợ, phân tích danh mục nợ nhằm phát hiện, đánh giá mức độ rủi ro, bảo đảm an toàn nợ và an ninh tài chính quốc gia.
Hoạt động của hệ thống giám sát nợ dựa trên việc theo dõi, phân tích các nghiệp vụ của quy trình huy động và sử dụng vốn vay của các chủ thể tham gia thị trường nợ. Đồng thời, căn cứ vào các số liệu, tài liệu báo cáo để đối chiếu với các tiêu chí, các quy định pháp luật về quản lý nợ nhằm phát hiện những bất cập, bất hợp lý, sự mất cân đối của các chỉ tiêu nợ để từ đó kịp thời đưa ra những điều chỉnh chính sách vay nợ và danh mục nợ phù hợp.
Hệ thống chỉ tiêu giám sát nợ bao gồm: những chỉ số tổng hợp phản ánh mức độ nợ, khả năng thanh toán nợ trong quan hệ so sánh với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tài khoá và tiền tệ của quốc gia. Các chỉ tiêu an toàn nợ là một số ngưỡng không được phép vượt quá đối với các chỉ tiêu về nợ có liên quan do cấp có thẩm quyền quyết định trong từng thời kỳ của một quốc gia.
Vai trò, chức năng của hệ thống giám sát nợ là phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề về mất cân đối, rủi ro tiềm tàng, hạn chế, bất cập trong tất cả các khâu của quy trình huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và quản lý nợ của một quốc gia.
Trong đó, hệ thống giám sát bao gồm: (i) hệ thống các quy định pháp luật về quản lý nợ mà ở đó thể hiện những quy định, nguyên tắc, quyền lợi và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân tham gia vào các khâu của quy trình quản lý nợ, sử dụng vốn vay và trả nợ, bảo vệ lợi ích hợp pháp và hạn chế những hành vi tiêu cực; (ii) một trong những công cụ của nhà nước trong quản lý hoạt động huy động, sử dụng vốn vay và trả nợ, đồng thời thực thi pháp luật về quản lý nợ của các chủ thể tham gia.
Nguyên tắc giám sát nợ là: (i) công bằng, nghĩa là không ưu ái đối tượng này hơn đối tượng khác và mọi đối tượng đều phải được đối xử bình đẳng trước pháp luật; (ii) minh bạch, nghĩa là phải đảm bảo mọi hoạt động trên thị trường được diễn ra minh bạch và công khai; (iii) bảo mật, nghĩa là trong quá trình giám sát cần được bảo mật, nhằm đảm bảo sự công bằng, và nguyên tắc này không hề mâu thuẫn với nguyên tắc trên mà mang tính bổ sung; (iv) kịp thời, nghĩa là kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các sai phạm trên thị trường.
Việc giám sát các chỉ tiêu về nợ phải bao gồm cả chỉ tiêu về giá trị danh nghĩa và giá trị hiện tại của các khoản nợ, kết hợp công tác giám sát toàn bộ quá trình huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và quản lý nợ của quốc gia.
Đối tượng giám sát nợ là: (i) các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ huy động, sử dụng vốn vay, trả nợ thuộc khu vực công; (ii) các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng và các tổ chức khác thực hiện vay và trả nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả.
Nội dung giám sát nợ là: (i) giám sát đối với hệ thống các chỉ tiêu an toàn, hạn mức nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia; (ii) giám sát chuyên đề đối với hoạt động huy động vốn vay, hiệu quả sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ, bao gồm: vốn vay cấp phát ngân sách nhà nước cho dự án đầu tư phát triển của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương, nợ vay nước ngoài của Chính phủ về cho vay lại, các chương trình/dự án của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng được Chính phủ bảo lãnh và nợ của các doanh nghiệp, tổ chức theo phương thức tự vay tự trả nước ngoài.
Trong hoạt động giám sát nợ, mỗi nước có một nhu cầu khác nhau về xây dựng năng lực quản lý, xác lập hệ thống các chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ chủ quyền. Những nhu cầu đó được hình thành qua những hạn chế về thị trường vốn của mình, qua cơ chế tỷ giá hối đoái, cũng như chất lượng các chính sách pháp luật và kinh tế vĩ mô, năng lực về thể chế để thiết kế và thực hiện cải cách, mức tín nhiệm quốc gia và các mục tiêu về quản lý nợ công.
Hiện nay, chưa có tiêu chuẩn chung về mức ngưỡng an toàn đối với các chỉ tiêu về nợ công để áp dụng cho tất cả các nước. Nguyên tắc xác định các chỉ tiêu an toàn về nợ công của từng nước thường được dựa trên: (i) cơ sở đánh giá thực trạng nợ; (ii) tình hình kinh tế vĩ mô, chính sách tài khoá, tiền tệ; (iii) nhu cầu về vốn đầu tư phát triển; (iv) hệ số tín nhiệm của quốc gia; (v) tham khảo khuyến nghị của IMF/Ngân hàng thế giới (WB) về ngưỡng an toàn nợ nước ngoài theo phân loại chất lượng khuôn khổ thể chế và chính sách.
WB hướng dẫn thông qua các phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ phân tích, đánh giá và giám sát các chỉ tiêu an toàn về nợ bằng cả định lượng (Chương trình quản lý nợ trung hạn - MTDS) và định tính (Công cụ đánh giá hiệu quả công tác quản lý nợ - DeMPA). IMF thực hiện việc giám sát, đánh giá bền vững nợ của các nước thành viên theo định kỳ thông qua việc cứ các phái đoán đánh giá bền vững nợ (DSA) hàng quý theo cam kết Điều khoản IV của IMF.
Các chỉ tiêu “đo” tính bền vững nợ ở Việt Nam
Các số liệu và bảng biểu dưới đây cho thấy, WB đưa ra các chỉ tiêu chung đánh giá tính bền vững nợ công ở Việt Nam.
Các nước khu vực đồng tiền chung châu Âu có quy định hạn mức trần nợ công áp dụng chung cho tất cả các nước trong khối là dưới 60% GDP; thâm hụt ngân sách dưới 3% GDP.
Ở Việt Nam, theo Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 22/07/2012 của Thủ tướng Chính phủ về các chỉ tiêu an toàn về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia thì: (i) nợ công đến năm 2020 không quá 65% GDP, trong đó, dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP; (ii) nghĩa vụ trả nợ trực tiếp Chính phủ (không kể cho vay lại) so với tổng thu ngân sách nhà nước hàng năm dưới 25% giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; (iii) tỷ lệ dự trữ ngoại hối nhà nước so với tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn hàng năm trên 200%. Căn cứ theo các quy định trên, tính đến ngày 31/12/2012, tổng số nợ công của Việt Nam là 1.642.916 tỷ đồng, bằng 55,7% GDP năm 2012.
Như vậy, nếu so sánh với các chỉ tiêu an toàn về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia quy định tại Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 22/07/2012 của Thủ tướng Chính phủ, thì nợ công Việt Nam hiện vẫn ở mức an toàn. Tuy nhiên, các chỉ số trên có xu hướng gia tăng trong thời gian tới do nhu cầu gia tăng huy động nguồn vốn vay cho đầu tư phát triển của đất nước, trong khi nguồn nội lực chưa đáp ứng đủ.
Với diễn biến về kế hoạch vay của Chính phủ, hạn mức bảo lãnh Chính phủ và nợ của chính quyền địa phương nêu trong chiến lược nợ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và cập nhật tình hình thực hiện đến cuối năm 2012, dự kiến các chỉ tiêu về nợ công đến năm 2020 (Hình 1)
Một số hạn chế và giải pháp giám sát an toàn nợ công
Bên cạnh những công cụ giám sát an toàn nợ công hiệu quả ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, còn tồn tại một số hạn chế sau:
Thứ nhất, công tác giám sát an toàn nợ công còn mang tính thủ công, chưa có các phần mềm chuyên biệt để xử lý công việc một cách tự động trong một số khâu cần thiết;
Thứ hai, việc tự động hóa một số công đoạn trong quy trình giám sát vẫn đang ở giai đoạn triển khai bước đầu, chưa xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu chung phục vụ công tác giám sát nợ;
Thứ ba, việc giám sát tình hình tuân thủ của các tổ chủ chương trình/dự án, người vay, người được bảo lãnh vẫn còn nhiều khiếm khuyết như không phát hiện ra các sai phạm hay phát hiện không kịp thời do chưa có phần mềm để quản lý, kiểm tra, đánh giá rủi ro.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên và nâng cao, hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ công, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, thời gian tới, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện thể chế chính sách và công cụ quản lý nợ, từng bước phùhợp với thông lệquốc tế; tiếp tục hoàn thiện bộ máy cơ quan quản lý nợ và phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan thực hiện công tác giám sát nợ;
Hai là, nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay; kiểm soát chặt chẽ việc cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ;
Ba là, tăng cường công tác giám sát và quản lý rủi ro về nợ công, trong đó tập trung nghiên cứu, xây dựng và triển khai phương án xử lý rủi ro (chuyển đổi nợ thành viện trợ/đầu tư, mua bán nợ, hoán đổi nợ), phân loại nợ bị rủi ro tín dụng, ban hành tiêu chí đánh giá, xếp hạng về khả năng trả nợ của người vay lại, người được bảo lãnh và chủ động trích lập, bố trí nguồn dự phòng;
Bốn là, đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu trong nước; chú trọng công tác quản lý nợ chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động cơ quan quản lýnợ;
Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý nợ công, đặc biệt ưu tiên áp dụng các chuẩn mức quốc tế về quản lý nợ công và tăng cường thông tin đối ngoại về nợ công của Việt Nam.
Giám sát an toàn nợ công ở Việt Nam: Những vấn đề đặt ra
(Tài chính) Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã và đang tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc đảm bảo tính an toàn của nợ công và an ninh tài chính quốc gia, trong đó đề cao vai trò giám sát an toàn nợ công đang là vấn đề cấp bách đặt ra đối với các nền kinh tế trên thế giới và Việt Nam.
Xem thêm