Nhìn lại xuất nhập khẩu năm 2013
Bối cảnh thế giới và trong nước
Kinh tế thế giới: Cuối năm 2012, khi chính phủ nhiều nước tung ra các gói kích thích kinh tế, đã có những hy vọng nền kinh tế thế giới sẽ phục hồi trong năm 2013. Tuy nhiên, bức tranh kinh tế toàn cầu năm 2013 về cơ bản vẫn là gam màu xám. Khu vực Eurozone tuy có một số tín hiệu tích cực song chưa thoát ra khỏi khủng hoảng nợ công. Kinh tế Mỹ dưới tác động của gói QE3 có dấu hiệu phục hồi song chưa vững chắc. Kinh tế Nhật Bản có một số biến chuyển do chính sách kích cầu Abenomics, song chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kéo dài từ 2 thập kỷ qua. Trong khi đó, Trung Quốc và Ấn Độ đều hạ mức tăng trưởng đáng kể.
Trước tình hình đó, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã liên tục hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2013 từ 3,5% (đưa ra tháng 1/2013) xuống 3,3% (đưa ra tháng 4) rồi 3,1% (đưa ra tháng 7) và cuối cùng là 2,9% (đưa ra tháng 10). IMF cũng hạ dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu năm 2013 từ 3,8% (đưa ra tháng 1/2013) xuống 2,9% (đưa ra tháng 10/2013).
Kinh tế trong nước: Các giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô được thực hiện từ năm 2011 đến nay đã mang lại kết quả khả quan. Lạm phát giảm từ 18,13% năm 2011 xuống 6,81% năm 2012 và năm 2013 chỉ còn 6,04%. Tuy nhiên, các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô không tránh khỏi những tác động phụ đến nền kinh tế. Sức mua và tổng cầu bị suy giảm đáng kể, nhiều doanh nghiệp (DN) không bán được hàng, do đó tồn kho tăng cao.
Nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất của DN suy giảm cộng với nợ xấu của DN còn cao khiến tăng trưởng tín dụng năm 2013 không đạt chỉ tiêu, dù khá khiêm tốn là 12%. Những nguyên nhân này khiến tăng trưởng GDP năm 2013 chỉ đạt 5,42% và chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp chỉ tăng 5,7%.
Xuất nhập khẩu năm 2013 - Thành tựu và hạn chế
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả năm ước đạt 132,2 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012, vượt chỉ tiêu 10% mà Quốc hội đề ra. Kim ngạch nhập khẩu đạt 131,3 tỷ USD, tăng 15,4%. Như vậy năm 2013, nước ta xuất siêu được 863 triệu USD (Bảng 1).
Cơ cấu xuất khẩu tiếp tục chuyển biến tích cực: Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến - chế tạo trong xuất khẩu tăng từ 68,7% năm 2012 lên 70,5% năm 2013, trong khi tỷ trọng nhóm hàng nông lâm sản giảm từ 16,8% năm 2012 xuống 15% năm 2013. Riêng tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu - khoáng sản duy trì ổn định ở mức 7,3% trong 2 năm qua.
Các sản phẩm thuộc nhóm hàng công nghiệp chế biến - chế tạo tăng mạnh: Cả 4 nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất năm 2013 (kim ngạch trên 8 tỷ USD) đều thuộc công nghiệp chế biến - chế tạo (Bảng 2). Đó cũng là các mặt hàng có mức tăng trưởng xuất khẩu cao năm 2013, gồm điện thoại và linh kiện (tăng 69,2%), điện tử, máy tính và linh kiện (36,2%), dệt may (18,6%), giày dép (15,2%).
Các thị trường xuất khẩu chính vẫn tăng. Bất chấp bối cảnh kinh tế toàn cầu ảm đạm, các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam vẫn tăng (Bảng 3). Tăng mạnh nhất là các thị trường EU (tăng 20,4%) và Mỹ (20,3%). Các thị trường quan trọng khác cũng tăng, song với mức khiêm tốn hơn là ASEAN (6,3%), Nhật Bản (3,8%) và Trung Quốc (2,1%).
Năm 2013 là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam xuất siêu. Năm 2012, lần đầu tiên nước ta xuất siêu được 200 triệu USD sau hàng chục năm liên tục nhập siêu. Năm 2013, Việt Nam lại tiếp tục xuất siêu với mức cao hơn là 863 triệu USD.
Mặc dù đạt được những thành tựu ấn tượng, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế. Cơ cấu xuất khẩu vẫn tập trung vào một số ít nhóm hàng chủ lực. Cơ cấu xuất khẩu, mặc dù có chuyển biến tích cực trong những năm qua, song cho đến nay vẫn chủ yếu tập trung vào một số ít mặt hàng chủ lực. Chỉ riêng 18 sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (có kim ngạch xuất khẩu từ1 tỷ USD trở lên) chiếm tới 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 2013.
Kim ngạch xuất khẩu cao, song giá trị gia tăng thấp. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm 3 nhóm chính là nông lâm thủy sản, nhiên liệu - khoáng sản (dầu thô, than đá) và công nghiệp chế biến - chế tạo.
Các nhóm nông lâm thủy sản (gạo, cà phê, cao su, sắn, tôm cá) và nhiên liệu - khoáng sản (dầu thô, than đá, quặng) chủ yếu được xuất dưới dạng thô chưa qua chế biến nên giá trị gia tăng thấp. Nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến - chế tạo (điện thoại, điện tử, dệt may, giày dép) hiện chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, song hầu hết là gia công và lắp ráp, do vậy giá trị gia tăng cũng rất thấp. Điển hình là điện thoại di động, hiện đã vượt dệt may để trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của nước ta với kim ngạch năm 2013 lên đến 21,2 tỷ USD.
Song, thực chất đây là mặt hàng lắp ráp dựa trên nhập khẩu hầu như toàn bộ linh phụ kiện từ nước ngoài. Tình hình tương tự cũng xảy ra đối với các sản phẩm công nghiệp chế biến - chế tạo khác như dệt may, giày dép, tuy giá trị gia tăng của các mặt hàng này có cao hơn so với điện thoại, máy tính và linh kiện.
Do đó, tuy tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh song giá trị gia tăng thu được thấp. Do tỷ lệ giá trị gia tăng thấp, Việt Nam buộc phải đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực này sang một số thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU. Điều này khiến các DN xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với các biện pháp tự vệ do các quốc gia này đưa ra để bảo vệ sản xuất nội địa.
Tăng trưởng xuất khẩu 2013 chủ yếu nhờ khối DN FDI. Khối DN FDI hiện chiếm trên 61% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Năm 2013, khối này đạt mức tăng trưởng xuất khẩu 24,7%, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước là 15,4%. Trong khi đó, các DN nội địa hiện chiếm tỷ trọng chưa đầy 39% và chỉ đạt mức tăng trưởng 3,5% trong năm 2013.
Mức xuất siêu đạt được cũng do đóng góp của khối DN FDI. Năm 2013, nền kinh tế nước ta xuất siêu được gần 900 triệu USD. Song đạt được kết quả đó là nhờ các DN FDI xuất siêu 14 tỷ USD trong khi các DN trong nước nhập siêu tới 13,1 tỷ USD.
Trong khi kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến - chế tạo tăng mạnh tới 25,5% thì kim ngạch của nhóm hàng nông, lâm sản lại giảm 5,3%. Trong đó giảm mạnh nhất là cà phê (giảm 26,6%), sắn và sản phẩm từ sắn (19,2%), gạo (18,7%), cao su (11,7%). Nguyên nhân là do từ năm 2012 đến nay trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ảm đạm, giá nhóm hàng nông lâm thủy sản đảo chiều giảm mạnh sau khi tăng mạnh trong các năm 2010-2011.
Xuất nhập khẩu phụ thuộc quá lớn vào một số ít thị trường. Riêng 5 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam đã chiếm tới 70,6% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2013 (trong đó EU 18,5%, Mỹ17,9%, ASEAN 14%, Nhật Bản 10,3%, Trung Quốc 10%). Trong khi đó, 6 thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta (theo thứ tự là Trung Quốc, ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU và Mỹ) cũng chiếm tới 79,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, riêng nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc chiếm tới 27,8% toàn bộ nhập khẩu của nước ta.
Nền kinh tế có rủi ro là dễ tổn thương hơn khi dựa quá nhiều vào xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu trên GDP của Việt Nam rất cao (lên đến 90% như hiện nay) một mặt thể hiện độ mở cao của nền kinh tế nước ta, song mặt khác cho thấy kinh tế Việt Nam hiện dựa quá nhiều vào xuất khẩu. Nếu thương mại toàn cầu sụt giảm mạnh, nền kinh tế sẽ bị tổn thương.
Triển vọng nào trong năm 2014?
Các yếu tố tác động
Dự báo triển vọng xuất khẩu năm 2014 được đưa ra dựa trên các yếu tố sau:
Triển vọng kinh tế thế giới: IMF dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2014 là 3,6% và tăng trưởng thương mại toàn cầu là 4,9%, cải thiện hơn so với năm 2013. Đây là yếu tố thuận lợi cho xuất khẩu của Việt Nam.
Triển vọng các thị trường xuất khẩu chính: Hầu hết các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam (Mỹ, EU, Nhật, ASEAN) được dự báo là năm 2014 sẽ có mức tăng trưởng GDP cao hơn năm 2013, do vậy nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng cao hơn.
Với triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2014 sáng sủa hơn, dự báo giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới (trong đó có các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam) năm 2014 sẽ tăng hơn cao hơn năm 2013.
Dự báo triển vọng xuất khẩu Việt Nam năm 2014
Năm 2014, dự báo kinh tếViệt Nam sẽ tăng trưởng cao hơn so với năm 2013, đạt mức khoảng 5,6-5,8%.
Như vậy, hầu hết các yếu tố tác động đến xuất khẩu năm 2014 đều khá thuận lợi. Trong bối cảnh đó, dự báo triển vọng xuất khẩu của Việt Nam năm 2014 sẽ đạt mức tăng 16%, cao hơn mức tăng trưởng 15,4% của năm 2013 và cao hơn chỉ tiêu đề ra của Quốc hội là 10%.
Về nhập siêu, dự báo năm 2014, mức nhập siêu sẽ dưới 4% xuất khẩu (tức dưới 6 tỷ USD), thấp hơn chỉ tiêu đề ra của Quốc hội là dưới 6% xuất khẩu (tức dưới 8,75 tỷ USD).
Tài liệu tham khảo:
1. IMF, “World Economic Outlook” (tháng 1, 4, 7 và 10/2013);
2. Nghị quyết kỳ họp Quốc hội cuối năm 2013;
3. Tổng cục Thống kê, “Số liệu thống kê xuất nhập khẩu hàng tháng năm 2013”.
Liệu xuất khẩu năm 2014 có duy trì được nhịp độ tăng trưởng cao?
(Tài chính) Thành công của kinh tế vĩ mô năm 2013 có đóng góp quan trọng của lĩnh vực xuất nhập khẩu. Không chỉ xuất khẩu vẫn duy trì được tỷ lệ tăng trưởng cao mà nhập siêu cũng được kiểm soát ở mức hợp lý nên lần đầu tiên sau nhiều năm xuất siêu mới đạt trên 800 triệu USD. Bước vào năm 2014, với nền tảng kinh tế trong nước và quốc tế khởi sắc hơn, kỳ vọng xuất khẩu sẽ vượt mức tăng trưởng 15% của năm 2013.
Xem thêm