Cuối năm 2012, nền kinh tế trong nước tiếp tục gặp những khó khăn, thách thức mà những năm trước đó chưa giải quyết được. Kinh tế vĩ mô vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn; Lạm phát có nguy cơ tăng trở lại, lãi suất cho vay tuy đã giảm nhưng vẫn còn cao, nợ xấu có xu hướng gia tăng; Hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước vẫn chưa hết khó khăn, hàng tồn kho cao; Thị trường bất động sản trầm lắng; Thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh.
Bởi vậy, thay vì hướng tới phục hồi tăng trưởng nhanh thì mục tiêu ổn định kinh tế, duy trì lạm phát thấp để tạo nền tảng vững chắc cho những năm sau đã được Quốc hội xác định trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013. Để hiện thực hóa chủ trương này, Chính phủ đã chủ động đề ra các giải pháp chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2013 trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2013, đồng thời tập trung chỉ đạo điều hành, triển khai thực hiện một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu trong Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013.
Thực hiện Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ, chính sách tài khóa đã được thực hiện theo hướng chặt chẽ, triệt để tiết kiệm trong chi tiêu nhưng lại giảm nhẹcác khoản thu ngân sách để tạo điều kiện phục hồi kinh tế.
Các chính sách thuế như gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế giá trị gia tăng (GTGT) từ 3 đến 6 tháng cho các DN vừa và nhỏ (DNVVN), DN sử dụng nhiều lao động trong các ngành nông lâm thủy sản, dệt may, da giày, xây dựng; Hoàn thuế bảo vệ môi trường cho mà các đối tượng đã nộp trong năm 2012; Giảm lệ phí trước bạ và thực hiện thống nhất trên toàn quốc đối một số loại xe ô tô;
Đặc biệt đã cho phép giảm 50% tiền thuê đất phải nộp năm 2013 và năm 2014 đối với những đối tượng mà tiền thuê đất phải nộp theo Nghị định số 121/2010/NĐ-CP tăng quá 2 lần so với mức nộp năm 2010… Tất cả những biện pháp trên đã giúp giảm gánh nặng thuế, hỗ trợ các DN tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm.
Bên cạnh những biện pháp có tính chất hỗ trợ tức thời cho giai đoạn khó khăn, các biện pháp mang tính dài hạn nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi hơn nữa cho DN cũng được thực hiện. Thuế TNDN trung bình giảm từ 25% xuống còn 23%, riêng các DNVVN được áp dụng mức thuế 20% áp dụng ngay từ 1/7/2013. Các quy định mới cũng cụ thể hơn các ưu đãi về thuế suất và thời gian miễn, giảm thuế đối với đầu tư mở rộng cho một số ngành nghề nhất định. Những ưu đãi về thuế này được hy vọng sẽ tạo ra động lực cho hoạt động kinh doanh, tăng cường tái đầu tư mở rộng sản xuất của các DN, thúc đẩy nền kinh tế vượt qua khó khăn.
Song song với đó, chính sách thuế thu nhập cá nhân (TNCN) cũng được điều chỉnh, nâng mức giảm trừ gia cảnh từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng đối với người nộp thuế và từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng đối với người phụ thuộc, miễn thuế đối với một số khoản thu nhập… đã có tác động trực tiếp làm tăng thu nhập khả dụng của người dân, từ đó làm tăng tổng cầu của nền kinh tế.
Chi tiêu ngân sách ngay từ đầu năm đã được phân bổ theo hướng ưu tiên các nhiệm vụ quan trọng, bảo đảm nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh xã hội và điều chỉnh tiền lương, đồng thời với tiết kiệm chi tiêu, giảm tối đa các khoản chi chưa thực sự thiết yếu như tổ chức lễ hội, khánh tiết, kiểm soát chi chặt chẽ, đảm bảo đúng mục đích, đối tượng và hiệu quả. Đối với chi đầu tư phát triển, đây là năm thứ hai tiếp tục thực hiện triệt để thắt chặt quản lý đầu tư, ưu tiên hoàn vốn ứng trước, xử lý nợ xây dựng cơ bản, còn lại mới bố trí cho các dự án triển khai mới.
Nhờ điều hành chính sách tài khóa hợp lý, tính chung cho cả năm, số thu ngân ngách đã hoàn thành vượt dự toán. Chi ngân sách đã đảm bảo các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, trả nợ, cải cách tiền lương, an sinh xã hội. Bội chi ngân sách được chủ động điều chỉnh tăng từ 4,8% lên mức 5,3% đã góp phần tăng cường nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế trong điều kiện nợ công vẫn được duy trì trong các ngưỡng an toàn.
Song song với chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ cũng được sử dụng một cách linh hoạt, thận trọng. Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng được kiểm soát phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, đồng thời bảo đảm tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Lãi suất nhìn chung đã được điều hành phù hợp với biến động của lạm phát và theo định hướng hỗ trợ sản xuất kinh doanh.
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) ra đời vào tháng 7/2013 được xem là công cụ chính sách quan trọng để từng bước giải quyết vấn đề nợ xấu. Thị trường ngoại hối được duy trì ổn định, chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do ở mức thấp. Không chỉ dừng ở đó, nỗ lực hỗ trợ thị trường bất động sản của Chính phủ được thể hiện qua gói hỗ trợ 30.000 tỷ đồng cho vay mua bất động sản đã góp phần lấy lại niềm tin của thị trường.
Hiệu quả trong điều hành
Tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu phục hồi, từng bước được cải thiện: Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2013 đạt 5,42%, cao hơn tốc độ 5,25% của năm 2012. Trong đó, tốc độ tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước với tốc độ lần lượt các quý là 4,76%, 5%, 5,54% và 6,04%. Đặt trong bối cảnh kinh tế thế giới hồi phục chậm chạp, sản xuất trong nước còn khó khăn, nên có thể coi đây là mức tăng hợp lý, khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các giải pháp được Chính phủ ban hành. Cơ cấu nhóm ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch ổn định theo hướng tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản giảm xuống, tỷ trọng của hai nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng lên.
Lạm phát tăng thấp mặc dù chịu áp lực tăng giá của nhiều mặt hàng thiết yếu: Trong năm qua, Chính phủ đã cho phép hai ngành y tế và giáo dục có những điều chỉnh về mức thu để đảm bảo phản ánh đầy đủ và chính xác hơn chi phí; Mặt hàng điện và xăng dầu, nước sạch tiếp tục điều hành theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng cả năm chỉ tăng 6,04% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp nhất trong 10 năm trở lại đây và thấp hơn số kế hoạch đề ra là 7%. Đây là thành quả nổi bật của kinh tế Việt Nam trong việc duy trì lạm phát ổn định liên tiếp 2 năm giúp ổn định kỳ vọng lạm phát và ổn định kinh tếvĩmô.
Sản xuất công nghiệp phục hồi rõ nét hơn: Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trong năm 2013 đã được cải thiện, thấy rõ qua từng tháng cũng như từng quý. Tính cả chung năm 2013, chỉ số IIP tăng 5,9%, cao hơn mức tăng 4,8% của năm 2012. Sự phục hồi này chủ yếu nhờ vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,4%, cao hơn nhiều so với con số 5,5% của năm 2012. Đặc biệt chỉ số sản xuất của các ngành như dệt, sản xuất da và các sản phẩm liên quan cũng tăng mạnh trong năm 2013 với các mức lần lượt là 21,8% và 15,3%.
Hàng tồn kho giảm đáng kể: Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/12/2013 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 10,2% so với cùng thời điểm năm 2012, trong khi con số này của cùng kỳ năm 2011 là 23%, năm 2012 là 20,1%. Thành tích nổi bật này cho thấy các biện pháp nhằm hỗ trợ thị trường, giải quyết hàng tồn kho do Chính phủ đề ra được thực hiện một cách quyết liệt và mang lại hiệu quả rõ rệt.
Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp như sản xuất, chế biến thực phẩm chỉ tăng 8,8%, dệt tăng 6,3%, một số ngành có chỉ số tồn kho giảm như sản xuất đồ uống giảm 21,9%, sản xuất xe có động cơ giảm 37,8%. Đây có thể coi là một tín hiệu về sự khởi sắc đối với sản xuất công nghiệp trong thời gian tới.
Nguồn vốn FDI tiếp tục tăng trưởng tốt, cơ cấu vốn chuyển hướng tích cực: FDI thu hút đạt 21,6 tỷ USD, tăng 54,5% so với cùng kỳ2012, gấp rưỡi mục tiêu 13 – 14 tỷUSD của cảnăm. Vốn FDI thực hiện đạt ước tính đạt 11,5 tỷ USD, tăng 9,9% so với năm 2012. Lĩnh vực sản xuất công nghiệp, chế biến, chế tạo thu hút lượng vốn đầu tư lớn nhất, với 16,6 tỷ USD, tăng gấp gần 2 lần so với cùng kỳ, chiếm 76,9% tổng vốn đăng ký. Điều này cho thấy năng lực sản xuất của ngành công nghiệp của Việt Nam sẽ có sự phát triển tích cực hơn trong những năm sau.
Có những cải thiện đáng kể về môi trường kinh doanh: Trong báo cáo Chỉ số Cạnh tranh toàn cầu 2013 – 2014 (Global Competitiveness Index - GCI) vừa được Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố, Việt Nam xếp vị trí thứ 70/148 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 5 hạng so với năm ngoái, với tiến bộ rõvề môi trường kinh tế vĩ mô (hạng 87, tăng 19 bậc); cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng (hạng 82, tăng 13 bậc); tiến bộ về hiệu quả thị trường hàng hóa (hạng 74, tăng 17 bậc). Điều này có thể lý giải một phần cho sự tăng trưởng mạnh của lượng vốn FDI thu hút trong năm nay và sẽ là một điều kiện tốt đểtiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
Tăng trưởng xuất nhập khẩu duy trì ở mức ổn định: Đây cũng là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam duy trì xuất siêu. Năm 2013, cả nước xuất siêu khoảng 863 triệu USD, bằng 0,65% tổng kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu nhờ sự tăng trưởng xuất khẩu đột biến của các mặt hàng điện thoại và linh kiện (69,2%); điện tử, máy tính và linh kiện (36,2%); hàng dệt may (18,6%)... Mặt khác, nhập khẩu cũng phục hồi, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2012, chủ yếu ở các mặt hàng nguyên liệu và máy móc phục vụ sản xuất xuất khẩu.
Thách thức trong năm 2014
Tuy đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trong năm 2013 nhưng những khó khăn mà kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt trong năm cũng không hề nhỏ. Tăng trưởng kinh tế năm 2013 mặc dù cao hơn năm trước và trung bình giai đoạn 2011 – 2013, chỉ đạt 5,6% nhưng lại thấp hơn so với chỉ tiêu tăng trưởng bình quân theo kế hoạch (6,5 - 7%). Điều này cho thấy, muốn phục hồi lại tốc độ tăng trưởng thì cần cố gắng lớn, đặc biệt là từ phía hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Tổng cầu nhìn chung còn yếu thể hiện qua tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ thấp hơn nhiều so với vài năm trở lại đây. Bên cạnh đó, thu ngân sách vẫn gặp nhiều khó khăn trong khi áp lực chi ngân sách cho an sinh xã hội ngày càng tăng, sẽ gây sức ép lớn đến bội chi ngân sách và nợ chính phủ. Lạm phát mặc dù tăng thấp nhưng vẫn tiềm ẩn khả năng tăng trở lại do có khả năng chịu ảnh hưởng từ việc thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hóa cơ bản (điện, xăng dầu, nước sách, học phí, viện phí…). Tốc độ giải quyết nợ xấu của hệ thống ngân hàng vẫn còn chậm ảnh hưởng nhiều đến khả năng vay vốn của các DN.
Mục tiêu tổng quát cho phát triển kinh tế năm 2014 vẫn là tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng hợp lý, đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế với các chỉ tiêu chủ yếu: GDP tăng khoảng 5,8%; Kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; Tỷ lệ nhập siêu khoảng 6% kim ngạch xuất khẩu; Tốc độ tăng giá tiêu dùng khoảng 7%; Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 30% GDP.
Định hướng điều hành kinh tế vĩ mô năm 2014 cho thấy cần sự kế thừa các chính sách đã phát huy hiệu quả trong năm 2013 để duy trì nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định. Trong đó chính sách tài chính có vai trò rất quan trọng.
Do vậy, cần tiếp tục thực hiện các chính sách thuế, phí, tín dụng nhà nước theo hướng tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh nhằm phục hồi tăng trưởng từ đó tạo nguồn thu trở lại cho ngân sách nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Tuy nhiệm vụ thu NSNN còn nhiều khó khăn nhưng Chính phủ vẫn thực hiện miễn thuế khoán và thuế thu nhập DN đối với một số đối tượng kinh doanh các dịch vụ thiết yếu như nhà trọ, phòng trọ cho thuê đối với công nhân, người lao động, sinh viên, học sinh; chăm sóc trông giữ trẻ; cung ứng suất ăn ca cho công nhân...
Chi ngân sách tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng tiết kiệm và tăng cường tính hiệu quả; Tập trung bố trí vốn đầu tư cho các dự án quan trọng có tính lan tỏa về mặt kinh tế xã hội cao, ưu tiên bố trí vốn cho các dự án đã hoàn thành. Trong giai đoạn trước mắt, nên hạn chế ban hành các chính sách, chế độ mới làm tăng chi NSNN, rà soát hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật không phù hợp với thực tế.
Chính sách giá đối với những hàng hóa cơ bản như điện, than bán cho sản xuất điện, xăng dầu, dịch vụ công cần tiếp tục điều hành triệt để theo nguyên tắc thị trường gắn với chính sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách và có lộ trình cụ thể.
Với những giải pháp tài chính được xác định có trọng tâm và phù hợp với tình hình thực tế, triển vọng kinh tế năm 2014 sẽ khả quan hơn năm 2013 và sẽ tạo tiền đề tốt cho nền kinh tế cất cánh trong những năm sau.
Linh hoạt trong chính sách, hiệu quả trong điều hành
(Tài chính) Kinh tế Việt Nam năm 2013 vừa khép lại với những tín hiệu đáng mừng của sự ổn định và đang từng bước phục hồi. Có thể nói đây là kết quả của những nỗ lực trong chỉ đạo, điều hành từ Chính phủ cũng như nỗ lực của các bộ, ngành và địa phương thực hiện tích cực, đồng bộ các giải pháp, chủ động khắc phục khó khăn để từng bước ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh.
Xem thêm