Về vấn đề xử lý vi phạm pháp luật thuế
Thứ nhất, về thực hiện nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính: Điều 104, Luật Quản lý thuế quy định nguyên tắc, thủ tục xử phạt vi phạm pháp luật về thuế. Theo đó: “Tổ chức, cá nhân chỉ bị xử phạt hành chính thuế khi có hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Một hành vi vi phạm pháp luật về thuế chỉ bị xử phạt một lần. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật về thuế thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật về thuế thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.” Điều 2 Nghị định 98/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế hướng dẫn rõ hơn về nội dung này: Một hành vi vi phạm pháp luật về thuế đã được người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt hoặc đã lập biên bản để xử phạt thì không được lập biên bản, ra quyết định xử phạt lần thứ hai đối với hành vi đó. Trường hợp hành vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm quyền xử phạt ra lệnh đình chỉ thì áp dụng biện pháp tăng nặng theo quy định tại Điều 3 Nghị định này.
Tuy vậy, áp dụng nguyên tắc này, trong quá trình thực hiện qui định của Luật Quản lý thuế, tại các Điều 106 (xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế), Điều 107 (xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn) còn có những vướng mắc phát sinh, đó là :
- Tại Điều 106, Luật Quản lý thuế - Xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế, qui định: Người nộp thuế có hành vi chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và bị xử phạt 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp.
- Tại Điều 107 - Xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, qui định: Người nộp thuế đã phản ánh đầy đủ, trung thực các nghiệp vụ kinh tế làm phát sinh nghĩa vụ thuế trên sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ nhưng khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn hoặc khai sai nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 6 và Khoản 7 Điều 108 của Luật này dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn thì phải nộp đủ số tiền thuế khai thiếu, nộp lại số tiền thuế được hoàn cao hơn và bị xử phạt 10% số tiền thuế khai thiếu, số tiền thuế được hoàn cao hơn và phạt tiền thuế chậm nộp trên số tiền thuế thiếu hoặc số tiền thuế được hoàn cao hơn.
Thực tế này dễ dẫn đến cách hiểu là một hành vi vi phạm hành chính về thuế bị xử phạt 2 lần. Do đó, đề nghị cần xem xét lại qui định tại điểm này, làm rõ vấn đề để đảm bảo phù hợp, thống nhất với nguyên tắc xử phạt hành chính.
Thứ hai, về thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp luật về thuế: Tại Điều 109, Luật Quản lý thuế qui định thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp luật về thuế như sau:
- Đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 -Vi phạm các thủ tục thuế theo Điều 103 của Luật thì thẩm quyền xử phạt được thực hiện theo “quy định của Luật này và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”.
- Đối với hành vi quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 103 (Chậm nộp tiền thuế; Khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn; Trốn thuế, gian lận thuế) của Luật này thì thủ trưởng cơ quan quản lý thuế, Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế.
Rà soát các qui định liên quan trong Luật Quản lý thuế, mặc dù tại Điều 114 đã có quy định về xử lý vi phạm đối với ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác, người bảo lãnh nộp tiền thuế và Điều 115 qui định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế đối với tổ chức, cá nhân có liên quan nhưng Luật lại chưa quy định thẩm quyền cụ thể việc xử lý vi phạm theo các Điều 114 và Điều 115 Luật này.
Về quy định kê khai thuế
Điều 34 - Khai bổ sung hồ sơ khai thuế, Luật Quản lý thuế 2006, quy định:
“Trước khi cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế, người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp có sai sót gây ảnh hưởng đến số thuế phải nộp thì được khai bổ sung hồ sơ khai thuế.”
Tuy nhiên trên thực tế, ngoài các bộ phận có chức năng thanh tra, kiểm tra thuế thuộc cơ quan thuế còn có Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ... trong khi làm nhiệm vụ cũng có nội dung thanh tra về thuế. Trong trường hợp các cơ quan trên có quyết định thanh, kiểm tra thậm chí đã có kết luận thanh tra thì người nộp thuế có còn được khai bổ sung, điều chỉnh tờ khai đã nộp không? Để áp dụng pháp luật được thống nhất và có hiệu lực cao, cần thiết phải qui định thống nhất: khi đã có quyết định thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý về thuế (nói chung) thì người nộp thuế không được quyền khai bổ sung, điều chỉnh nữa.
Một số thủ tục liên quan khi thực hiện Luật Quản lý thuế
Một là, về khai thuế tài nguyên: Theo quy định hiện hành (Điều 13 Thông tư số 28/2011/TT-BTC ngày 28/02/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của Chính phủ) thì hồ sơ khai thuế đối với những đơn vị có khai thác tài nguyên gồm:
- Hàng tháng: Khai Tờ khai thuế tài nguyên theo mẫu số 01/TAIN ban hành kèm theo Thông tư 28/2011/TT-BTC;
- Hàng năm: Khai Tờ khai thuế tài nguyên theo mẫu số 02/TAIN ban hành kèm theo Thông tư 28/2011/TT-BTC.
Tuy nhiên, thuế tài nguyên là thuế gián thu (tính vào giá trị tài nguyên khai thác bán ra), hàng tháng đơn vị đã khai các chỉ tiêu để tính và nộp thuế tài nguyên theo thực tế. Vì vậy, có thể thấy thực chất tờ khai quyết toán thuế tài nguyên (mẫu 02/TAIN) trong trường hợp đơn vị đang hoạt động bình thường chỉ là việc cộng dồn các chỉ tiêu trên tờ khai hàng tháng của năm tính thuế, từ đó khiến việc kê khai rườm rà, trùng lắp. Mặt khác, theo qui định của Luật Quản lý thuế thì để hồ sơ khai được chính xác, người nộp thuế có thể còn được khai bổ sung, điều chỉnh tờ khai thuế tài nguyên theo tháng khi phát hiện có sự sai sót hồ sơ đã kê khai.
Xuất phát từ phân tích trên, có thể đề nghị cải tiến việc khai thuế tài nguyên như sau:
- Bỏ quy định nộp tờ khai quyết toán thuế tài nguyên theo mẫu số 02/TAIN đối với các đơn vị khai thác tài nguyên đang hoạt động bình thường theo giấy phép kinh doanh.
- Nên qui định: Chỉ khai quyết toán thuế tài nguyên (theo mẫu số 02/TAIN) trong trường hợp chấm dứt hoạt động khai thác tài nguyên, chấm dứt hoạt động kinh doanh, chấm dứt hợp đồng, chuyển đổi hình thức sở hữu DN, tổ chức lại DN.
Trường hợp thấy cần thiết DN có thể khai bổ sung, điều chỉnh tờ khai thuế tài nguyên tháng theo qui định - mẫu số 01/KHBS (việc này các đơn vị vẫn đang thực hiện). Như vậy số liệu về khai thuế tài nguyên của người nộp thuế vẫn đảm bảo chính xác, kịp thời mà hạn chế được thủ tục và chi phí của đơn vị nộp thuế.
Hai là, về khai bổ sung, điều chỉnh về thuế: Như trên đã đề cập, việc khai bổ sung, điều chỉnh tờ khai thuế được thực hiện theo Điều 34, Luật Quản lý thuế năm 2006, Thông tư 28/2011/TT-BTC ngày 28/2/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể vấn đề này về cả về mẫu biểu và cách kê khai. Tuy nhiên trên thực tế phải thấy rằng còn rất nhiều lúng túng trong thực hiện, chẳng hạn: Việc điều chỉnh khai thuế trong trường hợp đơn vị bán có hóa đơn bị hủy phải xuất lại, điều chỉnh trong trường hợp số thuế đơn vị đề nghị hoàn có sự sai lệch, điều chỉnh doanh số tính thuế từ năm này sang năm khác (đơn vị chủ động làm theo cơ chế tự khai tự nộp )... Tất cả những điều này đòi hỏi phải có sự rà soát cả trong các quy định cụ thể khi áp dụng Luật và cả trong ứng dụng công nghệ thông tin tại ngành Thuế.
Ba là, thực hiện quy định khấu trừ tiền thanh toán công trình xây dựng cơ bản (XDCB) bằng vốn ngân sách nhà nước (NSNN) để nộp thuế: Điểm 3, Điều 24, Thông tư 28/2011/TT-BTC ngày 28/02/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của Chính phủ, qui định:
“ Kho bạc nhà nước (KBNN) trên địa bàn có trách nhiệm khấu trừ số thuế giá trị gia tăng (GTGT) để nộp vào NSNN theo tỷ lệ quy định là 2% trên số tiền thanh toán khối lượng các công trình, hạng mục công trình XDCB trên địa bàn bằng nguồn vốn NSNN, các dự án ODA thuộc diện chịu thuế GTGT.
Các khoản thanh toán không có hợp đồng kinh tế như: thanh toán cho các công việc quản lý dự án do chủ đầu tư trực tiếp thực hiện, các khoản chi ban quản lý dự án, chi giải phóng mặt bằng, chi đối với các dự án do dân tự làm... không thuộc phạm vi khấu trừ thuế GTGT quy định tại Thông tư này.”
Với qui định đổi mới trên đây, có thể thấy việc phối hợp để thu thuế lĩnh vực XDCB giữa cơ quan thuế và KBNN đối với các công trình sử dụng vốn NSNN được nâng lên một bước. Chính sách này đặc biệt hiệu quả và đảm bảo công bằng trong việc thu thuế các công trình không lớn, do các đơn vị có quy mô nhỏ thực hiện. Tuy nhiên, thực hiện qui định nêu trên cũng gặp phải không ít vướng mắc, cụ thể như sau:
Khi công trình vốn ngân sách hoàn thành theo tiến độ được nghiệm thu, các nhà thầu đã phải kê khai và nộp thuê GTGT đầu ra (với thuế suất hiện hành là 10%), thường thì việc cấp vốn diễn ra chậm hơn so với thời điểm nghiệm thu xây dựng, đến khi thanh toán vốn qua kho bạc, nhà thầu lại tiếp tục bị khấu trừ số tiền thuế 2% theo quy định nói trên. Như vậy, tại một thời điểm nhất định nào đấy, công trình loại này phải nộp NSNN với tỷ lệ 12% doanh thu. Do đó, nếu nộp thừa tiền thuế, các nhà thầu sẽ được hoàn lại, nhưng với trường hợp khấu trừ thừa như vậy, sẽ tạo thêm khó khăn về tài chính cũng như thủ tục (nếu phải hoàn thuế hay bù trừ thuế) cho đơn vị thi công.
Trong một số trường hợp, công trình XDCB nêu trên đã hoàn thành bàn giao nhưng khi thanh toán phần vốn còn lại mà NSNN đang nợ qua KBNN lại bị khấu trừ thêm 2% doanh thu sẽ gây vướng mắc cũng như tạo thủ tục phức tạp từ phía người nộp thuế trong xử lý số thuế khấu trừ “thừa” này.
Trên thực tế, khi kê khai nộp thuế, các đơn vị XDCB thường không bóc tách rõ rệt, nhất là về chi phí đầu vào của riêng công trình XDCB sử dụng vốn nhà nước hay các loại vốn khác. Vì vậy, qui định khấu trừ 2% trên doanh thu để nộp thuế đối với công trình sử dụng vốn NSNN qua KBNN làm cho việc tổng hợp kê khai cũng như xác định tình hình nộp thuế nói chung tại các đơn vị liên quan không tránh khỏi lúng túng và gặp phức tạp. Nên chăng, lựa chọn một trong 3 phương án sau đây:
Phương án 1, xử lý qua tờ khai thuế: Với cách này, cần thiết kế lại mẫu tờ khai thuế GTGT, trong đó có thêm chỉ tiêu giảm trừ số thuế thực nộp do KBNN khấu trừ trong các trường hợp nêu trên và bổ sung thêm phụ lục để thực hiện, căn cứ kê khai là các chứng từ hiện tại đơn vị tập hợp được. Như vậy số thuế khấu trừ này sẽ được bù trừ kịp thời vào nghĩa vụ thuế của người nộp thuế kỳ gần nhất mà không cần thêm các thủ tục khác.
Phương án 2, tổng hợp và loại bỏ ngay doanh thu liên quan đến số vốn thuộc NSNN được thanh toán qua KBNN: Với phương án này, khi kê khai doanh thu tính thuế đầu ra, người nộp thuế căn cứ vào từng công trình thực hiện. Trong trường hợp có doanh thu thuộc vốn NSNN và thanh toán qua KBNN thì chủ động kê khai loại bỏ khoản thuế 2% (tức là với doanh thu này thì đơn vị chỉ phải khai thuế đầu ra 8%). Về tổng thể nghĩa vụ thuế, 2% trên tổng thuế công trình loại này đã được KBNN thu bằng cách khấu trừ theo qui định nói trên.
Phương án 3, bù trừ ngay khi phải nộp số thuế phát sinh: Một phương án khác là qui định cụ thể: nếu người nộp thuế có chứng từ do kho bạc khấu trừ 2% công trình thuộc vốn ngân sách sẽ là căn cứ để giảm trừ số thuế phải nộp nếu kỳ khai thuế đó có phát sinh số thuế phải nộp hoặc sẽ được tổng hợp trong hồ sơ đề nghị số thuế được hoàn nếu kỳ khai thuế đó đang thực hiện làm hồ sơ hoàn thuế.
Mặt khác, cần qui định rõ đối với các công trình XDCB đã hoàn thành việc quyết toán thì căn cứ vào hồ sơ quyết toán, KBNN không thực hiện khấu trừ thuế theo cách trên nữa. Như vậy vừa đúng bản chất điều tiết của thuế GTGT, vừa phù hợp với thời điểm phát sinh doanh thu, vừa đỡ gây phức tạp cho người nộp thuế cũng như công việc của các cơ quan có liên quan.
_________________
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Quản lý thuế 2006 số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006;
2. Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ;
3. Nghị định 98/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 của Chính phủ;
4. Nghị định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của Chính phủ.
Một số góp ý về Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế
TCTC Online - Luật Quản lý thuế ra đời năm 2006 và có hiệu lực từ 01/07/2007. Với sự ra đời của Luật đã tạo ra một hành lang pháp lý đủ mạnh để điều chỉnh toàn diện, thống nhất công tác quản lý thuế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật cũng đã nảy sinh một số vấn đề cần phải xem xét điều chỉnh.
Xem thêm