Ngân hàng giảm lãi suất - những tín hiệu tích cực

Ts. Nguyễn Minh Phong

(Tài chính) Gần đây, thị trường tài chính, tín dụng trong nước ghi nhận hàng loạt động thái mới về hạ lãi suất ngân hàng, thể hiện những thay đổi phù hợp trong nhận thức và hành động của ngành ngân hàng. Việc giảm lãi suất đang và sẽ góp phần gỡ nút thắt tín dụng ngân hàng và tạo ra nhiều hiệu ứng tích cực cho doanh nghiệp

Ngân hàng giảm lãi suất - những tín hiệu tích cực
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Thị trường tài chính - tín dụng trong nước thời gian qua đã ghi nhận sự cải thiện đáng kể thanh khoản của các ngân hàng, trần lãi suất huy động trở nên quá rộng và thừa, cho phép Ngân hàng Nhà nước hai lần điều chỉnh hạ trần lãi suất huy động.

Đặc biệt, các ngân hàng không chỉ chấm dứt cuộc đua tăng và lách trần lãi suất huy động, mà gần đây còn xuất hiện xu hướng mới là ngân hàng thương mại chủ động giảm lãi suất huy động dưới trần quy định. Động thái tiên phong hạ lãi suất huy động được Vietcombank khơi mào khi ngân hàng này chính thức thông báo áp dụng lãi suất huy động VND kỳ hạn 1 tháng là 6%/năm; 2 tháng là 6,5%/năm; 3 tháng là 6,8%/năm; 6 - 9 tháng là 7%/năm (thấp hơn mức trần theo quy định của Ngân hàng Nhà nước là 7,5%/năm) và từ 12 tháng trở lên là 8%/năm.

Tiếp đó, BIDV, Agribank và Vietinbank đồng loạt thông báo giảm mạnh lãi suất huy động. Cụ thể, lãi suất tiết kiệm cá nhân của Agribank còn 5% đối với kỳ hạn 1 tháng; 7% cho kỳ hạn 2 tháng; 7,5% cho các kỳ hạn từ 3 - 9 tháng và 9% đối với kỳ hạn dài trên 12 tháng. Lãi suất huy động của BIDV ở mức 2%/năm cho kỳ hạn dưới 1 tháng; 6%/năm kỳ hạn 1 tháng: 6,5%/năm kỳ hạn 2 tháng; 7%/năm kỳ hạn 3 - 11 tháng và 8%/năm kỳ hạn trên 12 tháng.

Theo NHNN, nợ xấu đã có sự cải thiện về tỷ lệ, giảm từ 8% cuối năm 2012, xuống còn 6% vào quý I.2013 và chỉ còn khoảng 4,65% vào 20.6.2013; cũng như đang có dấu hiệu tích cực chuyển đổi dòng sản phẩm và phát triển nhà ở xã hội trên thị trườâng bất động sản.

Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước cũng quy định áp trở lại trần lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với 5 lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp, nông thôn; xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp nhỏ và vừa; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao giảm 11%/năm xuống 10%/năm. Lãi suất cho vay các khoản vay cũ khác cũng phải kéo về mức tối đa 13%/năm.

Nhìn chung, mặt bằng lãi suất cho vay đang giảm rõ rệt, khiến doanh nghiệp dễ thở hơn. Tính đến nay, trên 80% các khoản vay cũ đã được kéo lãi suất xuống dưới 13%/năm.  So với cuối năm 2012, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội giảm khoảng 2 -3%. Các lĩnh vực như nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ… được vay vốn với lãi suất ở mức 9  - 12%; 14,6 - 17,5% đối với vốn trung và dài hạn.

Việc hạ lãi suất huy động là phù hợp với cơ sở kinh tế thực tế, đặc biệt là kỳ vọng lạm phát đang khá thấp, tiền gửi khá dồi dào và nhu cầu tín dụng yếu, trong khi vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại, nhất là ngân hàng quy mô lớn đang dư thừa và các kênh đầu tư khác như trái phiếu Chính phủ, hối phiếu NHNN, trái phiếu doanh nghiệp (DN) đang rất hạn chế, và nguồn tiền tiết kiệm khá dồi dào, nhu cầu vay vốn lãi suất cao ngày càng giảm mạnh.

Hơn nữa, hạ lãi suất huy động không chỉ phù hợp với tình hình thanh khoản của ngân hàng và thị trường mà còn nhằm tạo cơ sở hạ lãi suất cho vay hỗ trợ DN. Giảm lãi suất huy động trước mắt không làm giảm khả năng huy động tín dụng của ngân hàng, bởi lãi suất vẫn thực dương và xấp xỉ lợi nhuận bình quân xã hội và một số lĩnh vực kinh doanh chủ yếu đang trì trệ.

Tuy nhiên, không nên quá lạm dụng việc giảm nhanh lãi suất huy động xuống dưới mức lạm phát cùng kỳ so sánh và cần thận trọng trước khả năng giảm hoặc rút tiền tiết kiệm, làm giảm huy động vốn thực tế theo lãi suất mới, từ đó có thể làm tăng áp lực thay đổi kế hoạch huy động và sử dụng vốn của mỗi ngân hàng và toàn hệ thống.

Việc hạ lãi suất cho vay trực tiếp cải thiện áp lực chi phí vốn cho doanh nghiệp và kích thích tiêu dùng, đầu tư xã hội với những tác động tích cực lan tỏa của chúng, góp phần trực tiếp giúp các DN và người dân giảm chi phí lãi suất vay tín dụng, từ đó tăng động lực, cơ hội tiếp cận vốn và sức cạnh tranh thị trường; đồng thời, giúp mở rộng dư nợ tín dụng của các ngân hàng dù trước mắt có thể làm giảm lợi nhuận của ngân hàng thương mại; cũng như tạo áp lực buộc các ngân hàng phải đẩy mạnh tái cơ cấu, giảm chi phí kinh doanh và thậm chí cả tiền lương và nhân sự.

Hơn nữa, việc áp trần lãi suất cho vay còn là giải pháp hữu hiệu giảm thiểu tình trạng đấu giá lãi suất vay cao và chạy đua lợi nhuận bất chấp rủi ro của các ngân hàng thương mại, từ đó giúp cân đối hơn cơ cấu dư nợ giữa các ngành và định hướng tốt hơn các luồng vốn cho sản xuất, giảm áp lực nợ xấu của cả DN và ngân hàng, tăng sự ổn định hệ thống và kinh tế vĩ mô.

Việc áp lại hai trần lãi suất cho vay đối với 5 nhóm ngành ưu tiên và các khoản vay thông thường khác, cùng với sự chủ động tung ra các gói hỗ trợ cho vay lãi suất thấp liên quan tới nhà ở xã hội là hết sức tích cực cho cả DN và ngân hàng, tuy nhiên không nên cào bằng giữa các ngân hàng.

Thực tế cho thấy, nhiều ngân hàng (nhất là ngân hàng nhỏ và có gánh nặng thanh khoản lớn, không có các nguồn vốn như tiền gửi thanh toán của DN, tiền gửi của hệ thống bảo hiểm, các khoản dịch vụ giải ngân ODA) chưa có động thái giảm thêm lãi suất tiền gửi. Đối với một số ngân hàng, việc giảm lãi suất cho vay cả cũ và mới sẽ không dễ dàng do áp lực và cả thói quen phải duy trì mức lợi nhuận cao và chi phí hoạt động của bộ máy.