Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 2021
Từ 2010-2020, các đề án điều tra cơ bản về tài nguyên rừng, tài nguyên biển đã được thực hiện. Các tập Động vật chí, Thực vật chí Việt Nam được liên tục cập nhật với 31 tập động vật và 21 tập thực vật được xuất bản và công bố từ năm 2000 đến nay. Danh sách loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ được cập nhật và ban hành tại Nghị định số 64/2019/NĐ-CP.
Những con số biết nói
Việt Nam là một trong những quốc gia có đa dạng sinh học cao, đặc biệt là đa dạng về loài. Theo báo cáo quốc gia lần thứ 6 đối với Công ước đa dạng sinh học (2019), Việt Nam có khoảng loài 51.400 sinh vật được xác định, bao gồm: khoảng 7.500 chủng vi sinh vật; khoảng 20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước; khoảng 10.900 loài động vật trên cạn; khoảng 2.000 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt; và hơn 11.000 loài sinh vật biển khác. Hàng năm, nhiều loài mới tiếp tục được phát hiện, nối dài danh lục các loài hiện có ở Việt Nam.
Trong các loài được ghi nhận, nhiều loài có giá trị bảo tồn cao, khẳng định tầm quan trọng toàn cầu của đa dạng sinh học Việt Nam như sao la, cheo cheo lưng bạc, mang lớn, mang trường sơn, thỏ vằn, voi châu á, bò rừng, bò xám, hổ, báo, hươu sao, các loài linh trưởng, các loài rùa biển và rùa cạn, nước ngọt...
Về tính đặc hữu, khu hệ động vật Việt Nam khá giàu về thành phần loài và có mức độ cao về tính đặc hữu so với các nước trong vùng Đông Dương. Trong số 21 loài khỉ có trong vùng này thì Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7 loài và phân loài đặc hữu. Trong vùng này có 49 loài chim đặc hữu thì Việt Nam có 33 loài, trong đó có 10 loài đặc hữu của Việt Nam.
Từ 1997 - 2014, dựa trên kết quả điều tra cơ bản các vùng lãnh thổ khác nhau ở Việt Nam, một số loài mới được phát hiện và mô tả, trong đó có nhiều chi, loài có giá trị khoa học. Trong 139 loài động, thực vật được tìm thấy có 90 loài thực vật, 23 loài bò sát, 16 loài lưỡng cư, 9 loài cá và 1 loài động vật có vú. Các nhà khoa học Việt Nam đã công bố 1.023 loài mới, cả về thực vật, động vật (Viện HLKHCN Việt Nam và ĐHQG Hà Nội). Từ năm 2014 đến 2018, có 344 loài mới gồm 208 loài động vật, 136 loài thực vật, đã được mô tả và công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế và Tạp chí Sinh học của Viện Hàn Lâm KH&CN Việt Nam (Báo cáo quốc gia lần thứ 6 đối với Công ước Đa dạng sinh học, 2019).
Nỗ lực bảo tồn loài
Trong thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã xây dựng và tích cực thực hiện Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học. Đối với hoạt động bảo tồn loài, bên cạnh vai trò của các cơ quan chính phủ cũng có sự đóng góp từ khu vực ngoài nhà nước như: các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phát triển và cộng đồng.
Về pháp lý và chính sách, hệ thống pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ loài hoang dã tiếp tục được thay đổi, điều chỉnh. Cùng với sự hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng (Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004, Luật Lâm nghiệp 2017), pháp luật về thủy sản (Luật Thủy sản 2004 và sửa đổi 2017), pháp luật về đầu tư-kinh doanh (Luật Đầu tư 2014), thì Luật đa dạng sinh học 2008 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 là văn bản pháp lý điều chỉnh toàn diện nhất về bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật, các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, loài hoang dã, cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học.
Đặc biệt, Bộ luật hình sự sửa đổi 2017 đã tăng mức hình phạt tối đa lên đến 1 tỷ đồng và 15 năm tù đối với tội danh liên quan đến loài hoang dã. Bên cạnh đó, các Chỉ thị kịp thời của Thủ tướng Chính phủ như Chỉ thị số 03/CT-TTg về việc tăng cường chỉ đạo và thực hiện các biện pháp kiểm soát, bảo tồn các loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm; Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 17/9/2016 về một số giải pháp cấp bách phòng ngừa, đấu tranh với hành vi xâm hại các loài ĐVHD trái pháp luật và mới đây là Chỉ thị số 29/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/7/2020 về một số giải pháp cấp bách quản lý động vật hoang dã trong bối cảnh dịch Covid-19 lan rộng, đã cho thấy sự quan tâm của Chính phủ đối với bảo tồn loài hoang dã.
Các hoạt động bảo tồn loài cũng được triển khai và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Từ 2010-2020, các đề án điều tra cơ bản về tài nguyên rừng, tài nguyên biển đã được thực hiện. Các tập Động vật chí, Thực vật chí Việt Nam được liên tục cập nhật với 31 tập động vật và 21 tập thực vật được xuất bản và công bố từ năm 2000 đến nay. Danh sách loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ được cập nhật và ban hành tại Nghị định số 64/2019/NĐ-CP. Sách đỏ Việt Nam được cập nhật (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, 2015).
Nhiều chương trình quan trắc các loài hoang dã cũng được triển khai như: Dự án điều tra tình trạng loài hổ (Panthera tigris corbetti), gấu (Ursus malayanus) ở VQG Pù Mát- Nghệ An; Chương trình giám sát thú linh trưởng VQG Phong Nha -Quảng Bình; Dự án giám sát quần thể voọc đầu trắng (Trachypithecus franscoisi poliochephalus),voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus); một số chương trình quan trắc loài cò thìa, sếu đầu đỏ, loài công, tê tê, Rùa Hoàn Kiếm; chương trình gắn thẻ, giám sát rùa biển trong mùa sinh sản và chương trình di dời, ấp trứng rùa tại VQG Côn Đảo; chương trình điều tra giám sát các loài chim ăn thịt di cư ban ngày tại các nước và vùng lãnh thổ Châu Á...
Nhiều hoạt động bảo tồn loài tại chỗ được chính phủ phê duyệt như Đề án tổng thể bảo tồn voi ở Việt Nam 2013-2020; Chương trình quốc gia bảo vệ hổ 2014-2022; Kế hoạch hành động khẩn cấp bảo tồn các loài linh trưởng của Việt Nam đến 2025, tầm nhìn đến 2030; Chương trình bảo tồn các loài rùa nguy cấp của Việt Nam đến 2025, tầm nhìn đến 2030; Nhiều địa phương đã chủ động xây dựng các chương trình/kế hoạch bảo tồn loài trên địa bàn như Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Kon Tum, Quảng Nam, Thanh Hoá…
Nhờ các hoạt động bảo tồn tại chỗ, số lượng cá thể một số loài linh trưởng đã tăng lên, đã phát hiện hơn 500 cá thể voọc chà vá chân xám (Pygathrix nemaeus cinerea) tại Konplon, Kon Tum và hơn 200 cá thể voọc xám đông dương (Trachypithecus barbei) tại KBT Xuân Liên, Thanh Hóa. Lúc thành lập, khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long, tỉnh Ninh Bình năm 2001, các nhà khoa học thống kê chỉ có 43 cá thể voọc mông trắng (Trachypithecus delacouri). Nhờ được bảo vệ, quần thể voọc mông trắng ngày càng tăng về số lượng, năm 2010 thống kê có 110 cá thể và tới 2016 đã tăng lên khoảng 150 cá thể. Hiện nay có 7 đàn voọc mông trắng với khoảng 40 cá thể mới phát hiện ở vùng núi đá vôi của tỉnh Hà Nam.
Bên cạnh đó, các hoạt động bảo tồn chuyển chỗ cũng đạt được một số thành tựu. Hiện nay, có 7 cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học được cấp phép hoạt động. Ngoài ra, nhờ chính sách khuyến khích gây nuôi sinh sản các loài nguy cấp nên một số loài vẫn tồn tại và phát triển, điển hình là hươu sao (Cervus nippon), cá sấu nước ngọt (Crocodylus siamensis), trăn đất (Python molurus), trăn gấm (Python recticulatus), rắn hổ mang (Naja naja).
Vững bước tương lai
Với những thành tựu trên, có thể khẳng định công tác bảo tồn loài hoang dã cũng như bảo tồn đa dạng sinh học đã có chuyển biến tích cực, từng bước trở thành nhiệm vụ toàn xã hội. Điều này rất có ý nghĩa vì chủ đề ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 2021 là “Chúng ta là một phần của giải pháp”, khẳng định con người cũng là một yếu tố của giải pháp vì thiên nhiên, thậm chí là chìa khóa quyết định thành công của công cuộc này.
Vì vậy, những lực lượng nòng cốt như các nhà khoa học, các tổ chức, cá nhân đang làm việc trong lĩnh vực đa dạng sinh học xứng đáng được vinh danh. Thấu hiểu điều này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức chương trình Vinh danh các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp trong công tác bảo tồn loài hoang dã 2010 – 2020 nhằm tôn vinh, ghi nhận các thành tích của họ, góp phần nâng cao niềm tự hào về đa dạng sinh học Việt Nam.
Bên cạnh các thành tựu, Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức. Theo báo cáo đánh giá kết quả chiến lược quốc gia về Đa dạng sinh học đến 2020, tầm nhìn đến 2030, những vấn đề như du nhập các loài ngoại lai xâm hại, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, tội phạm về động vật hoang dã phức tạp cũng như sự chia cắt, thu hẹp sinh cảnh và khai thác trái phép tài nguyên rừng, biển là những nguyên nhân đe dọa đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, hệ thống quản lý và các chính sách, pháp luật còn chồng chéo, bất cập cũng cần cải thiện.
Để bảo tồn hiệu quả các loài hoang dã, chúng ta phải kiên định với các mục tiêu bảo tồn tại chỗ, kết hợp với giải pháp bảo tồn chuyển chỗ các loài nguy cấp; tăng cường thực thi pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả các chính sách bảo tồn; nâng cao nhận thức về bảo tồn loài hoang dã và thay đổi thói quen để tiêu dùng bền vững, tránh tổn hại tới các loài và sinh cảnh của chúng; tiếp tục sửa đổi các quy định về bảo tồn loài để tạo hành lang pháp lý toàn diện, thống nhất; huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào công tác bảo tồn loài nói riêng và đa dạng sinh học nói chung.
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm về bảo tồn đa dạng sinh học, Bộ Tài nguyên Môi trường sẽ tiếp tục chủ trì, đồng hành cùng với các cơ quan các nhà khoa học, các tổ chức và cộng đồng để kiến tạo các giải pháp bền vững cho đa dạng sinh học nước nhà.