Thực trạng dịch vụ thẻ thanh toán

Giai đoạn phát triển 2007-2012

Trong giai đoạn 1996-2001, thị trường thẻ Việt Nam còn sơ khai, nhận thức của người dân về thanh toán thẻ còn hạn chế nên các sản phẩm thẻ chủ yếu chỉ đáp ứng nhu cầu của tầng lớp dân cư có thu nhập cao và phần lớn chỉ là thẻ quốc tế được sử dụng khi mua sắm hàng hoá dịch vụ ở nước ngoài. Bắt đầu từ năm 2002, trên nền tảng hệ thống ngân hàng “lõi” (core banking) mới hiện đại được các ngân hàng đầu tư nâng cấp, các sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa lần đầu tiên được phát hành tại Việt Nam. Nhờ đó, người dân đã bắt đầu biết đến và làm quen với một phương tiện thanh toán tiện lợi, nhanh gọn, dễ đăng ký, dễ sử dụng hoạt động dựa trên cơ sở tài khoản cá nhân.

Tuy nhiên, dịch vụ thẻ thanh toán thực sự sôi động, bắt đầu có chiều sâu vào những năm 2006-2007 khi Chính phủ ban hành Quyết định số 291/2006/ TTg về triển khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2011 và đặc biệt sự ra đời của quyết định số 20/2007/NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam điều chỉnh các quy định về phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân.

Điều này đã góp phần tạo một hành lang pháp lý rất quan trọng giúp thị trường có sự phát triển vượt bậc về hoạt động thanh toán và phát hành thẻ, số lượng các ngân hàng tham gia cung ứng dịch vụ thẻ ngày càng gia tăng với việc cho ra đời hàng loạt các sản phẩm thẻ tương đối hiện đại, nhiều tính năng, tiện ích đáp ứng yêu cầu của khách hàng.

Các số liệu thống kê cho thấy, số thẻ đã có sự tăng trưởng khá nhanh. Nếu như năm 2007, toàn thị trường mới có khoảng gần 9,34 triệu thẻ thì đến hết năm 2012, con số đó đã lên tới hơn 54,9 triệu thẻ tăng gần 5,6 lần. Số thương hiệu thẻ cũng tăng từ 95 thương hiệu lên khoảng 350 thương hiệu thẻ các loại. Trong tổng số 54,9 triệu thẻ (tính đến cuối năm 2012) hơn 90% là thẻ ghi nợ nội địa (49,4 triệu thẻ), 1,88 triệu thẻ ghi nợ quốc tế chiếm 3,6%, 1,52 triệu thẻ tín dụng quốc tế chiếm 28%…

Song song với hoạt động phát hành thẻ, hoạt động phát triển mạng lưới chấp nhận và thanh toán thẻ cũng có sự phát triển khá ấn tượng. Hệ thống ATM và Đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ - POS đã có sự tăng trưởng đáng kể, nhất là giai đoạn 2007 - 2012.

Nếu năm 2007, cả thị trường mới có hơn 11.000 POS thì đến 2012 đã lên tới hơn 104.427 POS, tăng gần 11 lần. Bên cạnh đó là 14.442 thiết bị ATM phục vụ hoạt động rút tiền thanh toán của chủ thẻ.

Việc chia sẻ mạng lưới và đẩy mạnh kết nối liên thông hệ thống ATM, POS cũng được tích cực thực hiện đã không chỉ góp phần gia tăng thuận tiện cho chủ thẻ mà còn góp phần nâng cao hiệu quả cho hoạt động thẻ của các ngân hàng thương mại (NHTM), tiết kiệm chi phí đầu tư cho mỗi ngân hàng và cho toàn xã hội.

Nhận diện những yếu tố chưa bền vững

Tuy đạt được nhiều thành tựu như trên nhưng dịch vụ thẻ tại Việt Nam còn nhiều biểu hiện phát triển chưa bền vững:

Thứ nhất, việc phát triển những năm vừa qua chủ yếu thiên về số lượng chưa đi kèm với sự thay đổi căn bản về chất lượng cũng như tăng cường giao dịch của chủ thẻ sau khi đã phát hành thẻ. Hiện tại cả Hội thẻ và NHNN đều chưa có con số chính xác về tỷ lệ thẻ hoạt động, tuy nhiên qua thăm dò ý kiến từ một số quản lý lãnh đạo Trung tâm Thẻ của một số Ngân hàng điển hình thì tỷ lệ thẻ hoạt động (lấy theo quan điểm chuyên môn là tối thiểu có một giao dịch thanh toán/rút tiền/chuyển khoản mỗi năm) chung của các ngân hàng rơi vào khoảng từ 60 - 71%, tùy từng ngân hàng và từng loại thẻ, trong đó thẻ tín dụng thường có tỷ lệ hoạt động cao nhất là khoảng 90% và tỷ lệ của thẻ hoạt động ghi nợ quốc tế thường là thấp nhất khoảng <60%.

Phát triển bền vững dịch vụ thẻ thanh toán ở Việt Nam - Ảnh 1

Thứ hai, việc phát hành và sử dụng thẻ tín dụng còn rất khiêm tốn cho thấy sự thích nghi của người dân với dịch vụ tín dụng tiêu dùng thanh toán trước trả tiền sau còn nhiều điểm cần phải khắc phục. Thẻ tín dụng là loại hình gắn chặt với hoạt động tín dụng tiêu dùng của người dân, nhất là ở các nước phát triển, thậm chí một số nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia… Tuy nhiên, theo báo cáo của Trung tâm tín dụng NHNN (CIC) tại Hội thảo về “Các giải pháp phát triển hiệu quả thị trường thẻ tín dụng tại Việt Nam” đầu tháng 5 vừa qua, toàn thị trường đến cuối tháng 4/2013 cũng chỉ có hơn 532.000 chủ thẻ có dư nợ (chỉ khoảng 35% chủ thẻ được thống kê có vay vốn) với số dư nợ là 7.229 tỷ đồng. Đây là con số khá thấp nếu so với tổng dư nợ cho vay tiêu dùng của nền kinh tế theo ước tính là khoảng 4,5 tỷ USD (tương đương với khoảng 94.500 tỷ đồng).

Thứ ba, doanh số dùng thẻ để rút tiền mặt qua ATM chiếm tỷ trọng quá cao, doanh số thanh toán qua đơn vị chấp nhận thẻ chiếm tỷ lệ quá ít nhất là thẻ ghi nợ nội địa. Đây là một đặc điểm tương đối đặc thù của hoạt động thẻ ở Việt Nam so với các nước khác và biểu hiện rõ nhất của sự chưa hiểu quả và thiếu bền vững của hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại Việt Nam.

Thứ tư, việc thanh toán thẻ qua đơn vị chấp nhận thẻ còn thấp, tính liên kết giữa đơn vị bán hàng và đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán không cao và kém bền vững dẫn đến việc phát triển dịch vụ thanh toán thẻ qua POS nói chung là chậm và chưa tương ứng với yêu cầu đòi hỏi của một nền kinh tế có hệ thống thanh toán hướng dần tới phi tiền mặt.

Nếu như năm 2007, toàn thị trường mới có khoảng gần 9,34 triệu thẻ thì đến hết năm 2012, con số đó đã lên tới hơn 54,9 triệu thẻ tăng gần 5,6 lần. Trong tổng số 54,9 triệu thẻ (tính đến cuối năm 2012) hơn 90% là thẻ ghi nợ nội địa (49,4 triệu thẻ), 1,88 triệu thẻ ghi nợ quốc tế chiếm 3,6%, 1,52 triệu thẻ tín dụng quốc tế chiếm 28%…

Tỷ lệ thanh toán thẻ so với tổng doanh số bán lẻ của nền kinh tế hàng năm còn rất thấp, chưa đến 3%. Do phần lớn khách hàng sử dụng thẻ nội địa là người Việt Nam vốn quen với việc sử dụng tiền mặt và dễ dàng tiếp cận với nguồn tiền mặt luân chuyển rất lớn tại các hệ thống máy ATM nên chủ thẻ nội địa hầu như không có thói quen mua hàng hóa dịch vụ bằng thẻ mà dùng nó để rút tiền rồi dùng tiền mặt tại ATM để thanh toán, vì vậy việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ nội địa vẫn gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại.

Thứ năm, các chính sách hỗ trợ phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tuy đã có khá nhiều nhưng chưa có chính sách mang tính đột phá để tạo một lực bẩy cho công cụ thanh toán thẻ và thanh toán điện tử phát triển mạnh mẽ hơn. Ngoài ra, do chưa có các quy định được luật hóa về việc yêu cầu kinh doanh dịch vụ đặc thù phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng như một số nước đã thực hiện nên các đơn vị kinh doanh hàng hóa dịch vụ, thậm chí ngay cả nhiều đơn vị kinh doanh bán lẻ lớn vẫn không sẵn sàng chấp nhận thanh toán thẻ mà lý do chính là tâm lý thích tiền mặt và có thể là một số thủ thuật để có lợi trong quá trình nộp thuế thu nhập trong hoạt động kinh doanh.

Giải pháp phát triển bền vững

Phát triển thẻ thanh toán đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ những năm vừa qua, các chính sách pháp luật cũng như các chỉ đạo của NHNN và các cơ quan liên quan cũng ngày càng hiệu quả giúp cho các ngân hàng cũng như khách hàng có sự hài hòa các lợi ích căn bản. Tuy nhiên, các phân tích trên cho thấy hoạt động phát triển dịch vụ thẻ ở nước ta vẫn còn nhiều yếu điểm, chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng.

Phát triển bền vững dịch vụ thẻ thanh toán ở Việt Nam - Ảnh 2

Đặc biệt, nhiều chỉ số thống kê cho thấy thị trường thẻ thanh toán đang tiềm ẩn nhiều yếu tố phát triển chưa bền vững, đòi hỏi cần có những giải pháp để cải thiện. Dựa trên các phân tích về số liệu thị trường, nhận diện những điểm chưa bền vững, bài viết xin gợi ý một số nhóm giải pháp sau đây:

Nhóm giải pháp đối với Chính phủ và NHNN

Thứ nhất, Nhà nước cần xem xét có quy định về các loại hình kinh doanh bắt buộc phải chấp nhận thanh toán qua ngân hàng ngay từ khi khởi sự kinh doanh nhằm minh bạch hóa các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh và cũng là tạo cơ sở cho việc theo dõi và quản lý thuế sau này: Ví dụ như hoạt động lữ hành du lịch, khách sạn, giao dịch bất động sản…; NHNN cần hoàn chỉnh dự thảo và sớm trình Chính phủ ban hành nghị định về thanh toán tiền mặt trong đó có chế tài bằng văn bản pháp quy các loại giao dịch được phép sử dụng tiền mặt và các loại giao dịch khác phải thanh toán phi tiền mặt qua ngân hàng. Việc quy định hạn mức được phép thanh toán bằng tiền mặt sẽ gặp một số phản ứng từ một bộ phận người dân/DN đang có lợi ích trực tiếp từ việc thanh toán bằng tiền mặt. Tuy nhiên, về tổng thể và lâu dài chắc chắn sẽ có hiệu quả chung cho nền kinh tế trong đó cả về phương diện thu ngân sách nhà nước.

Thứ hai, NHNN xem xét đề xuất với các cơ quan liên quan có hình thức hỗ trợ đơn giản thủ tục thanh toán hóa đơn thuế đối với các trường hợp chấp nhận thanh toán qua thẻ. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, có thể sử dụng hóa đơn thanh toán thẻ và bổ sung thêm một số thông tin phù hợp để đảm bảo hóa đơn thanh toán thẻ. Điều này sẽ khuyến khích người có thẻ tăng cường sử dụng thẻ để thanh toán, nâng cao tỷ lệ hoạt động thẻ, giảm dần tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt của người dân. Bên cạnh đó, nhiều đơn vị kinh doanh không muốn chấp nhận thẻ do phải trả phí cho ngân hàng, việc thanh toán thẻ sẽ phải công khai doanh thu nên có một số đơn vị kinh doanh chưa muốn sự minh bạch hoặc tránh thuế. Do vậy, nếu áp dụng một chính sách khuyến khích phù hợp như áp dụng thuế GTGT khi thanh toán qua ngân hàng thấp hơn khi thanh toán bằng tiền mặt sẽ động viên và khuyến khích các đơn vị kinh doanh tích cực hơn trong việc làm nghĩa vụ thuế. Tỷ lệ thu có thể giảm nhưng tổng mức thu thông thường sẽ tăng lên do có nhiều người nộp thuế hơn.

Thứ ba, cần sớm chuẩn hóa hoạt động thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng và giữa ngân hàng với ngân hàng: đây là giải pháp nhằm tạo nền tảng cho việc ứng dụng cơ chế xử lý tự động các giao dịch thanh toán, tăng tốc độ xử lý giao dịch và qua đó giảm chi phí. Việc chuẩn hóa này cần được thực hiện từ khâu mẫu biểu, quy trình, cơ chế xử lý giữa các ngân hàng song song với việc ban hành tiêu chuẩn về các trang thiết bị (ATM, POS…), tiêu chuẩn phần mềm, các thiết bị hỗ trợ theo tiêu chuẩn quốc gia.

Thứ tư, theo chúng tôi, Quyết định số 20/2007/ QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam điều chỉnh các quy định về phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân được ban hành đến nay đã giúp ích cho thị trương thẻ có sự phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, quy định này hiện đã có nhiều điều cần sửa đổi và thay thế để phù hợp hơn với tình hình mới, nhất là các quy định sẽ điều chỉnh chính sách phát triển bền vững, xử lý chuyển mạch quốc gia tập trung, tiêu chuẩn hệ thống thẻ, hoạt động trích lập dự phòng rủi ro hoạt động thanh toán thẻ...

Thứ năm, NHNN có cơ chế đồng thuận và khuyến khích việc các ngân hàng phát hành thẻ quốc tế thực hiện hoạt động thanh toán bù các giao dịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam cần được xử lý qua các công ty chuyển mạch của Việt Nam (Banknet hoặc Smartlink) nhằm giảm chi phí giao dịch phải trả cho các tổ chức thẻ quốc tế, tăng nguồn thu cho các ngân hàng nội địa và đảm bảo lợi ích quốc gia. Ngoài ra, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước, NHNN xem xét có tác động giúp các ngân hàng Việt Nam trong việc yêu cầu các tổ chức thẻ quốc tế giảm các mức phí áp dụng tại thị trường Việt Nam cũng như áp dụng các lộ trình đảm bảo tiêu chuẩn phù hợp với điều kiện Việt Nam. Ngoài ra, NHNN nên xem xét đẩy nhanh tiến trình xây dựng Trung tâm chuyển mạch quốc gia thống nhất và hệ thống bù trừ tự động quốc gia ACH (Automated Clearing House) để hỗ trợ cho việc chuyển mạch và kết nối liên thông qua mạng lưới các đơn vị chấp nhận thẻ, ATM, Dịch vụ thanh toán điện tử, thanh toán thẻ nội địa được thuận lợi hơn và tránh phụ thuộc và các tổ chức thẻ quốc tế.

Giải pháp cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức phát hành thẻ

Các NHTM và đơn vị cung cấp dịch vụ thẻ tuy đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong thời gian vừa qua nhưng trong thực tế kết quả đạt được chưa như kỳ vọng của người dân và cơ quan quản lý. Để tiếp tục phát triển lành mạnh thị trường thẻ, các ngân hàng cần quan tâm đến các nội dung sau đây:

Thứ nhất, cần tăng cường đầu tư công nghệ, đặc biệt là các thiết bị thẻ và mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ, tăng tỷ lệ thẻ hoạt động để tiến tới giảm dần sự phụ thuộc của giao dịch thẻ vào hệ thống ATM. Theo chúng tôi nếu các ngân hàng làm được việc nâng cao tỷ lệ thẻ hoạt động lên khoảng 75% thay vì bình quân chỉ khoảng 65% như hiện nay (tương ứng với khoảng 5,5 triệu thẻ mới) sẽ giúp ích đáng kể cho việc tăng hiệu quả trong công tác phát hành thẻ của các ngân hàng cũng như cải thiện thêm đáng kể tỷ lệ người dân thực sự sử dụng dịch vụ ngân hàng.

Thứ hai, các ngân hàng, hiệp hội thẻ cần tăng cường công tác truyền thống phổ biến các lợi ích, sự an toàn cũng như hiệu quả khi sử dụng thẻ thanh toán để người dân và DN hiểu để tăng cường sử dụng thẻ.

Thứ ba, bên cạnh việc tích cực phát triển thẻ ghi nợ như thời gian vừa qua, các ngân hàng cần có chính sách và hệ thống công cụ phù hợp để đẩy nhanh việc triển khai dịch vụ thẻ tín dụng, từ đó hướng người dân vào sử dụng các dịch vụ tín dụng phục vụ tiêu dùng theo hình thức chi tiêu trước trả tiền sau. Với tâm lý chuộng “tiền tươi thóc thật” như hiện nay, việc yêu cầu ngay chủ thẻ nội địa sử dụng tiền để thanh toán thẻ của họ là khá khó nhưng nếu với người dùng thẻ tín dụng tiêu trước trả sau thì chắc chắn thói quen sử dụng thẻ của người dân sẽ dần dần thay đổi và từ đó có tác dụng khuếch tán đến thói quen của những người khác để hình thành những thói quen ngày càng phù hợp hơn, giúp cho hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế đạt được mục tiêu của mình.

Thứ tư, cần tích cực đầu tư mở rộng liên kết hợp tác trong thanh toán thẻ thông qua việc triển khai toàn diện hoạt động kết nối các hệ thống thẻ để khai thác tận dụng tối đa nguồn lực đầu tư, đồng thời tăng cường dịch vụ phục vụ khách hàng sử dụng thẻ. Tích cực nỗ lực làm việc với các nhà cung cấp dịch vụ thiết yếu như điện, nước, điện thoại… để mở rộng việc chấp nhận thanh toán các phí giao dịch cơ bản hàng ngày thông qua dịch vụ thanh toán bằng thẻ. Các ngân hàng cần chủ động trong việc đặt mục tiêu giảm dần tỷ lệ dùng thẻ để rút tiền mặt trong thời gian tới. Với tỷ lệ dùng thẻ, nhất là thẻ nội địa để rút tiền mặt qua ATM chiếm tới 97% doanh số như hiện nay thì không có yếu tố bền vững và rất khó cho các ngân hàng đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thông qua việc phát triển POS và kênh thanh toán điện tử khác. Theo chúng tôi các ngân hàng phải đặt mục tiêu để đạt được khoảng 250.000 POS vào năm 2015 như Đề án thanh toán không dùng tiền mặt đã được Chính phủ duyệt và giảm dần tỷ lệ rút tiền mặt của thẻ mà cụ thể là thẻ nội địa từ 97% hiện nay xuống còn khoảng 70% vào năm 2015 - 2016.

Thứ năm, các ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ bảo vệ quyền lợi của của khách hàng. Bên cạnh đó các NHTM cũng cần chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng như dịch vụ giải quyết tra soát khiếu nại, hỗ trợ giải đáp thắc mắc… liên quan đến các giao dịch thanh toán thẻ. Đặc biệt, các ngân hàng có cung cấp dịch vụ thanh toán – Acquring cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiên quyết xử lý các đơn vị chấp nhận thẻ và các nhà cung cấp dịch vụ tiến hành thu các phí phụ trội khi thanh toán bằng thẻ, từ đó khuyến khích người dân sử dụng nhiều hơn các phương tiện này. Không thể đẩy nhanh thanh toán không dùng tiền mặt khi mà tiền mặt khi dùng thanh toán được ưu đãi hơn các phương tiện phi tiền mặt như tại một số cơ sở kinh doanh hiện nay.

Trên đây là một số đánh giá, nhìn nhận về quá trình phát triển công cụ thanh toán không dùng tiền mặt mà điển hình là thẻ thanh toán ngân hàng. Các giải pháp nêu trên là mang tính gợi mở và việc áp dụng sẽ phải căn cứ vào thực tế của thời điểm và điều kiện cụ thể của nền kinh tế.

 Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo thường niên Hội thẻ ngân hàng 2007-2012;

2. Bùi Quang Tiên, Giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường thẻ Việt Nam 2013- 2014, Tài liệu Hội thảo “Các giải pháp phát triển hiệu quả thị trường thẻ tín dụng tại Việt Nam” Hội thẻ ngân hàng Việt Nam, 2013;

3. Phạm Công Uẩn, Thông tin tín dụng với sự phát triển của thị trường thẻ tín dụng Việt Nam, Tài Liệu Hội thảo “Các giải pháp phát triển hiệu quả thị trường thẻ tín dụng tại Việt Nam” Hội thẻ ngân hàng Việt Nam, 2013;

4. World Card Intellegence: Vietnam-Lafferty Report 2012.

Phát triển bền vững dịch vụ thẻ thanh toán ở Việt Nam

ThS. Đặng Công Hoàn

(Tài chính) Thanh toán không dùng tiền mặt đã trở thành phương thức thanh toán chủ đạo của người dân tại các nước phát triển. Tại Việt Nam, thẻ thanh toán cũng đã có sự tăng trưởng đáng kể. Tuy nhiên, để dịch vụ thẻ thanh toán phát triển bền vững và hiệu quả, cần những giải pháp phù hợp hướng tới mục tiêu đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt.

Xem thêm

Video nổi bật